Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Con người > Hồi tưởng > Sài Gòn ngày 30/4/1975

Sài Gòn ngày 30/4/1975

Thứ Năm 30, Tháng Tư 2009

Làm phóng viên cho AP, Peter Arnett có mặt ở miền Nam Việt Nam từ năm 1962-1975, chứng kiến nhiều sự kiện trong cuộc chiến tranh của Mỹ. Sau đây là một số đoạn trong cuốn hồi ký Từ chiến trường khốc liệt (Live from the Battlefield) của ông do Nhà xuất bản Thông tấn ấn hành, Phạm Hải Chung dịch.


Hai người lính Bắc Việt (giữa và thứ hai từ trái) tại Văn phòng AP đang chỉ hướng hành quân của quân giải phóng vào Sài Gòn ngày 30/4/1975. Ảnh: AP

“Đã kết thúc rồi”

Trưa thứ Hai, 27/4/1975, tướng Dương Văn Minh gọi điện thoại cho tôi với lời mời tới thăm nhà ông ở gần Dinh Tổng thống.

Chúng tôi uống trà Trung Quốc nóng và ông ta giải thích sự kết thúc đã tới gần. Ông cho biết lực lượng cộng sản đã tới gần Biên Hoà ở hướng đông và Củ Chi ở hướng tây, chuẩn bị tấn công vào Sài Gòn theo hình compa...

Sáng sớm ngày 28/4, lúc bốn giờ sáng, khi những viên đạn đầu tiên chạm đất, tôi nhảy ra khỏi giường khách sạn Caravelle, chạy lên sân thượng toà khách sạn nơi có vài đồng nghiệp tập trung.

Tôi điện thoại cho Esper từ quầy bar khách sạn Caravelle. Chúng tôi đồng ý rằng trận bắn phá có thể kết thúc việc di tản ở sân bay và thực hiện phương án bốn, cuộc rút lui cuối cùng.

Brian Ellis của hãng CBS gọi cho văn phòng AP lúc 11 giờ. Đại sứ quán Mỹ nói với anh ta việc rút lui toàn bộ bắt đầu. Matt Franjola và tôi cùng Ed White gặp nhau tại điểm đón xe bus gần văn phòng chúng tôi- nơi hẹn các đồng nghiệp đang trên đường tới.

Franjola và tôi leo lên chiếc xe jeep bám theo những xe bus tới nhà Đại sứ Mỹ theo chỉ dẫn. Khi chúng tôi đỗ xe, một sĩ quan quân đội Cộng hoà mặc quân phục chạy tới và năn nỉ chúng tôi cho đi cùng ra sân bay.

Tôi nhận ra anh là nhân viên Bộ Thông tin. Tôi nói anh ta rằng sẽ không bao giờ qua được cửa sân bay vì những người gác sẽ đẩy lính trở lại. Anh ta thay quần áo trên đường, ném bộ đồ quân phục ra phía sau gốc cây và mặc chiếc quần thường phục cùng áo thể thao. Anh ta giới thiệu một đứa bé nhỏ là con trai mình và nói với tôi rằng chỉ có cha con anh sẽ rời đi, vợ anh ta cùng con gái sẽ ở lại.

Tôi nhìn vào Matt và chúng tôi hiểu phải làm gì. Những chiếc xe bus đang chạy xa dần. Tôi bảo hai cha con lên xe jeep của chúng tôi. Chúng tôi cho xe vượt lên phía trước một chiếc xe bus, gõ vào cửa xe bus cho đến khi người lái xe bus phải mở cửa ra quát: “Muốn gì?”.

Tôi đẩy tay sĩ quan Cộng hoà và con trai anh ta vào trong xe bus, nói rằng hãy ráng chịu đựng nếu người ta tìm cách đẩy cha con anh ra ngoài.

Matt và tôi lái xe qua những cổng sân bay được canh gác sau chiếc xe bus, đi qua hàng chục chiếc xe đậu dọc đường. Khi các đồng nghiệp biết Matt và tôi ở lại, họ chúc mừng vài câu rồi ném chìa khoá ô tô của họ cho chúng tôi và chỉ cho biết những xe ấy hiện đang đỗ ở đâu.

Vào những giờ phút cuối cùng của Chính quyền Sài Gòn, thời tiết ẩm ướt. Gió mùa mang đến một cơn mưa lớn. Từ toà nhà Eden, tôi chứng kiến bóng của những chiếc trực thăng biến mất vào đêm. Phía dưới ánh đèn đường một số người đang nhìn lên bầu trời và ra hiệu với một số túi hành lý nhỏ trên tay.

Nhưng giờ đã quá muộn để bay đi. Buổi tối hôm đó trực thăng đã đi hết, tôi leo xuống văn phòng AP ở tầng bốn nơi người phiên dịch của chúng tôi, ông Hương, cùng gia đình đang nằm trên sàn nhà.

Ngày 30/4, sau khi dùng bữa sáng, Franjola và tôi xuống đường thấy những chiếc xe jeep chở lính Cộng hoà bồng súng giơ lên chạy như điên trong thành phố.

Không có âm thanh của trận chiến. Bây giờ họ không phải sợ ai nữa, sĩ quan cấp trên của họ đã rời đi hết. Chúng tôi đi qua ba trạm xăng góc phố nơi những cột bơm xăng đã bị nhổ lên và những người lái xe hút xăng bằng xi phông trực tiếp vào ô tô của họ.

Chúng tôi lái xe tới Đại sứ quán Mỹ. Con đường phía trước trải đầy giấy in, các tài liệu bị xé nát, sách và các tờ báo. Cổng các toà nhà hành chính được mở rộng và một tay lính trẻ người Việt nhảy dựng lên trong hành lang the thé bằng tiếng Anh một cách chế nhạo: “Bây giờ nói là Đại sứ quán của chúng tao”.

Chúng tôi lên nóc toà nhà Đại sứ quán thấy gần 100 người Việt vẫn ngồi ở đó, chờ đợi. Họ định ở đó tới khi những chiếc trực thăng quay lại đón. Tôi không nỡ lòng nào nói với họ rằng tất cả đã kết thúc rồi.

Chúng tôi trở lại văn phòng. Cầu thang kẹt đầy người Việt trốn sau những bức tường bê tông dày. Esper đang điều khiển việc truyền tin radio từ Sài Gòn cùng ông Hương phiên dịch.

Bỗng người phiên dịch từ phòng vô tuyến thét lên: Tổng thống mới bổ nhiệm Dương Văn Minh (hay còn gọi là Minh Lớn) - người từng dẫn đầu cuộc đảo chính chống Tổng thống Diệm năm 1963- đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.

Bây giờ ông ta đang chính thức giao đất nước cho cộng sản. Esper đánh máy bản tin và nhanh chóng đưa nó cho người đánh máy in telex. Tin này là bằng chứng cụ thể với thế giới rằng chiến tranh đã kết thúc. Phòng Ngoại sự New York nhanh chóng gửi cho chúng tôi bức điện nói rằng tin do chúng tôi gửi về được đăng trên trang nhất và AP đã phát sớm hơn hãng UPI năm phút.

George rời văn phòng để xuống đường xem chuyện gì đang xảy ra. Khi anh băng qua Quảng trường Lam Sơn, một đại tá cảnh sát người Việt trong quân phục trang trọng bắt chuyện với George và lắp bắp với vốn tiếng Anh lắp ráp: “Kết thúc rồi” .

Sau đó đại tá tiến lên khoảng mười bước, khuôn mặt lạnh lùng, nói lời tạm biệt bức tượng gần đó rồi rút khẩu súng lục 4.5 li bắn vào đầu mình. Khi viết tin về sự kiện này, đôi bàn tay George vẫn còn run sợ vì lúc chứng kiến điều đó trong khoảnh khắc George đã nghĩ viên đạn của đại tá dành cho anh.

Quân đội Bắc Việt

Tôi đang lái xe ra phía sau Đại sứ quán Anh thì một chiếc xe jeep màu đen đi tới cùng một người ngồi trên nóc xe mặc áo sơ mi trắng, quần đen, đi giầy... Trong xe tất cả mọi người đều mặc áo đen, vẫy cờ Việt Cộng”.

Tôi xem đồng hồ của mình: 11 giờ 25 phút sáng. Tôi bảo George cùng ra ngoài xem xét tình hình. Một đám lính cộng hoà chạy trên đường Tự Do, cứ nhảy lò cò vì họ đang tháo bỏ giày và quân phục để chạy. Tôi nghe tiếng còi bim bim inh tai từ một chiếc xe tải. Một chiếc xe lớn đang lăn bánh về phía sông Sài Gòn.

Tim tôi ngừng đập: Đó là chiếc Molotova của Nga và đằng sau xe là nhóm binh lính cộng sản trẻ mặc quân phục mỏng màu xanh có mũ sao. Khuôn mặt họ đầy vẻ nghiêm trang và lạ lùng khi họ nhìn lên những toà nhà cao tầng mà lần đầu tiên họ được thấy. Người Sài Gòn cũng đổ ra đường ngạc nhiên. Băng rôn Việt Cộng lớn màu xanh da trời bất ngờ được kéo lên ở cột cờ của Khách sạn Caravelle. Các nhân viên khách sạn chắc đã bí mật khâu những băng rôn này.

Tôi bước lên cầu thang để trở về văn phòng của mình, trong đầu nghĩ đây là một sự kết thúc của tất cả những gì mà một thế hệ Mỹ đã chiến đấu để chống lại và mấy đời tổng thống âm mưu ngăn chặn. Cái kết thúc đến quá nhanh. Một người trong đám nhốn nháo trên lối đi cầu thang đẩy vào người tôi hỏi: “Chuyện gì đang xảy ra vậy?”. Tôi trả lời: “Việt Cộng đang ở bên ngoài”.

Tôi lách qua đám đông tụ tập trước cửa văn phòng và cảm thấy mệt mỏi. George dìu tôi đến bên máy chữ. Tôi ra hiệu lấy giấy và viết tin bắt đầu bằng: “Sài Gòn, 30/4, hôm nay quân Giải phóng chiếm Sài Gòn một cách hoà bình. Họ hành quân trên những đại lộ đầy cây bên đường trên những chiếc xe tải của Nga cùng cờ bay phấp phới. Người Sài Gòn đứng chứng kiến hai bên đường. Không một tiếng súng nổ”.

Tôi trao tờ tin cho nhân viên telex, Tammy. Anh này đọc tin, há hốc mồm rồi tìm cách trốn khỏi văn phòng. Esper và tôi ấn vai anh ta xuống bảo phát ngay tin đó về tổng xã. Sau đó anh ta biến khỏi văn phòng không thấy trở lại.

Matt và tôi xuống đường một lần nữa, thấy rất nhiều xe tải Nga trên đường Tự Do. Mọi người đổ ra đường. Nỗi sợ hãi về một thảm kịch tức thời biến mất. Tôi giơ máy ảnh lên chụp, một sĩ quan cộng hoà nói bằng tiếng Anh: “Không được chụp ảnh”. Tôi mỉm cười, cứ tiếp tục bấm máy và nghĩ thầm: “Anh không còn ở vị trí để ra lệnh nữa rồi”.

Phóng viên quay phim người Úc Neil Davis từ Dinh Tổng thống tiến lại chỗ tôi ở đường Pasteurs. Neil Davis đã ở đó một phút trước khi xe tăng quân giải phóng xô đổ cửa chính Dinh Độc lập. Tôi chạy về văn phòng bảo Esper làm tin đó thì súng nổ dữ dội ngay ngoài cửa sổ của chúng tôi. Một nhóm quân giải phóng bò qua những bụi cây trong công viên để tiến về phía Toà Thị chính.

Franjola vừa bước vào văn phòng hãng AP vừa nói: “Họ đã đến rồi”. Tôi ngước mắt hỏi “Ai đến?”. Anh ta đáp: “Việt Cộng”.

Lúc này, Kỳ Nhân, một trong những cộng tác viên ảnh của chúng tôi, bước vào văn phòng cùng hai chiến sĩ quân giải phóng. Tôi nghĩ họ đến để bắt chúng tôi. Lòng tự nhủ điều quan trọng là chúng tôi đã phát được tin ra thế giới rồi. Tôi bước tới chào hai vị khách. Một người khoác súng AK-47 trên vai, người kia đeo súng lục ở thắt lưng.

Kỳ Nhân nói với tôi bằng tiếng Anh: “Tôi đảm bảo an toàn cho văn phòng AP. Anh đừng lo”. Tôi ngạc nhiên vì Kỳ Nhân vẫn bán cho chúng tôi những bức ảnh chiến tranh. Kỳ Nhân thú nhận mình là điệp viên của Việt Cộng.

“Tôi đã nói cho họ về AP, về các anh rằng các anh là những người tốt nên họ đến đây thăm các anh như những người bạn”, Kỳ Nhân nói. Những vị khách của chúng tối cũng đang mỉm cười. George đứng dậy bắt tay và cám ơn hai chiến sĩ quân giải phóng vì đã không bắt giam chúng tôi. Hai vị khách cùng chúng tôi ăn bánh nướng, uống Coca Cola nhưng từ chối uống rượu cognac mà tôi vẫn giiữ trong ngăn bàn để uống trong những dịp đặc biệt.

Tôi bảo Esper phỏng vấn hai chiến sĩ quân giải phóng. Một người tên là Lâm Bình Huân, người kia là Trần Việt Cả. Hai người đều là trung sĩ bộ binh, 25 tuổi, đến từ Hà Nội. Trước đây hai ngày, đơn vị của họ đã tấn công thắng lợi vào Biên Hoà. Sáng 30/4,
những người lính này cùng lữ đoàn xe tăng tiến vào Sài Gòn. Hai người lính Bắc Việt chỉ cho tôi đường tiến quân của họ trên bản đồ tại văn phòng AP. Họ tự tin đến mức tôi đoán họ là những điệp viên.

George vào phòng telex bắt đầu truyền tin về New York cuộc phỏng vấn đầu tiên của chúng tôi với những người chiến thắng ở Sài Gòn. Hai người lính theo George vào phòng telex. Tôi xé một mẩu tin AP từ máy telex in ra, bảo Kỳ Nhân dịch giúp ra tiếng Việt: “Tổng thống Ford tuyên bố việc di tản người Mỹ từ Việt Nam đã khép lại một chương trong lịch sử nước Mỹ...”

Franjola và tôi trở lại đường phố, dân chúng đã rời nơi ẩn nấp đổ ra đường hoà cùng những người lính chiến thắng.

Một nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại giao chính quyền Sài Gòn đang đi cùng vợ trên đường Tự Do giật tay áo tôi nói: “Peter, tôi không hiểu nổi. Năm 1945 khi tôi đi cùng quân giải phóng Pháp tiến vào Paris, người giải phóng Pháp cũng cướp phá, bắn giết gái mại dâm và đối xử tàn bạo những người cộng tác với chế độ cũ. Nhưng những người Cộng sản này họ không làm vậy”. Vợ ông ta xen vào: “Họ quá tôn trọng chúng tôi. Không thể hiểu nổi”.

Trong lúc lái xe ra sân bay, trên đường Công Lý tôi gặp một đoàn quân giải phóng như vừa bước ra khỏi những trang sách hướng dẫn về chiến tranh du kích. Cả trăm người đi hàng đôi, chân mang dép cao su, quân phục rộng thùng thình, vai mang vũ khí nhẹ.

Đây là lát cắt sắc nét về quân đội Bắc Việt-những người lính bộ binh cộng sản từng đương đầu với B-52, kiên trì vượt qua bom napal và pháo binh của đối phương để cuối cùng họ giành chiến thắng. Sự ngoan cường của họ là điều khó hiểu đối với một thế hệ các nhà lập kế hoạch quân sự Mỹ.

Tôi cũng không cảm thấy mình hiểu rõ hơn quyết tâm của họ khi chứng kiến những người lính Bắc Việt đi qua tôi hai lần trong cái nóng buổi chiều Sài Gòn vừa được giải phóng.

Đ.P (TP trích giới thiệu)