Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Khoa học > Ngôn ngữ > Lịch sử nghiên cứu cú pháp Việt (2)

Researchs on Vietnamese Grammar (1945-1990)

Lịch sử nghiên cứu cú pháp Việt (2)

Thứ Sáu 23, Tháng Ba 2007

Giai đoạn sau năm 1945 có một cái mốc đáng ghi nhớ, đó là sự xuất hiện cuốn “Việt ngữ nghiên cứu” của Phan Khôi vào năm 1955, trong đó tác giả phê phán khuynh hướng “từ bản vị” đồng thời khẳng định khuynh hướng “cú bản vị”, là khuynh hướng du nhập vào Việt Nam qua cuốn ngữ pháp tiếng Trung Quốc “Tân trước quốc ngữ văn” của Lê Cẩm Hi. Phan Khôi cho rằng với một thứ tiếng không biến đổi hình thái như tiếng Việt mà theo “từ bản vị”, “mà sách văn pháp lại cứ bắt đầu chia ra từ loại thì thật xa vời sự thật quá, nếu không nói là vô lí” [1955; 16]. Tác giả đề nghị theo “cú bản vị”, tức “lấy tổ chức câu làm gốc, làm phần chính trong sự dạy văn pháp. Bắt đầu từ câu ngắn đến câu dài, từ câu đơn đến câu kép... Trong khi ấy mới tuỳ ở vị trí và chức năng của từng từ mà quy nó vào loại nào, và nhân đó mà nhìn rõ công dụng của nó” [1955; 16]. Theo tinh thần này, tác giả cho rằng câu tiếng Việt “có thể có đến sáu thành phần” gồm chủ ngữ, vị ngữ, tân ngữ, bổ túc ngữ, hình dung phụ gia ngữ và phó từ phụ gia ngữ. Có thể thấy, chuyển từ bản vị (phần nào phản ánh qua các tên gọi chủ từ, túc từ...) sang cú bản vị (phần nào phản ánh qua các tên gọi chủ ngữ, vị ngữ, bổ túc ngữ...) trong phân tích cấu trúc câu tiếng Việt là một bước ngoặt đáng ghi nhận. Các tác giả khác như Phan Ngọc, Nguyễn Lân cũng chịu ảnh hưởng rõ rệt khuynh hướng này.

Trong giai đoạn này, đáng chú ý còn có Lê Văn Lí, được coi là người đầu tiên áp dụng một số phương pháp của ngôn ngữ học cấu trúc vào miêu tả cú pháp tiếng Việt. Tác giả dùng một số hư từ, gọi là từ chứng, thử đem kết hợp với các từ của tiếng Việt để chia từ tiếng Việt ra các loại A, B, B’ và C (ít nhiều ứng với danh từ, động từ, tính từ và hư từ). Sau đó, ông nêu ra các kết hợp có thể có được của các từ loại này, ví dụ [dẫn theo Emeneau M.B 1951; 228–232]:

AAAAAA : Sáng cháo gà, tối cháo vịt.
CCCCCCCCC : Dù sao chăng nữa cũng tại chúng mày cả.
AB : Nước chảy.
AB’ : Nhà cao.
AC : Xe tôi.
ABA : Mẹ về chợ.
ABB : Chó muốn chạy.

Trong những năm 60, 70, khi tiếng Việt được giảng dạy một cách sâu rộng trong nhà trường ở cả hai miền Nam Bắc, các nhà nghiên cứu đã có ý thức phân tích câu tiếng Việt thoát khỏi khuôn mẫu của câu tiếng Pháp. Theo tinh thần này, một số đặc trưng của câu tiếng Việt đã được phát hiện, đặc biệt là sự thừa nhận một loại thành phần câu không hề có trong các sách ngữ pháp tiếng Pháp, được gọi tên là chủ đề (nhóm Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê) khởi ngữ (Nguyễn Kim Thản) hay từ-chủ đề (nhóm Nguyễn Tài Cẩn, I.X Bưxtrov, N.V Xtankevich...). Tư cách của thành phần câu này đến hôm nay vẫn là một trong những tiêu điểm gây tranh cãi trong nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt.

Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê cho rằng trong những câu như “Thư/Giáp gửi rồi” tiếng diễn tả thoại đề (“đề”, mục đích câu nói) và chủ từ không phải là một. Các tác giả đã đề xuất một thành phần câu có “chức vụ riêng”, gọi là “chủ đề” và định nghĩa như sau: “Chủ đề là tiếng đứng ở đầu câu, dùng để diễn tả thoại đề mà không phải là chủ từ. Về ý tứ, chủ đề có liên lạc hoặc với một tiếng khác trong câu, hoặc với cả câu. Nhưng về ngữ pháp thì chủ đề đứng riêng biệt, không có quan hệ với một tiếng nào trong câu cả. Chủ đề đặt trước chủ từ” [1963;530]. Nguyễn Kim Thản thì gọi thành phần câu này là khởi ngữ, một loại “thành phần thứ yếu của câu thường xuyên đứng ở vị trí 1 trong câu song phần” [1964; 208], về mặt nghĩa khởi ngữ có thể trùng với chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, định ngữ hoặc không trùng với một thành phần nào trong câu hay từ tổ, như có thể thấy qua các ví dụ sau:

Tôi thì tôi xin chịu.

Giàu, tôi cũng giàu rồi. Sang, tôi cũng sang rồi.

Cô Toản, tôi gặp một lần ở Yên Bái, lấy chồng được hai con.

Nhà, bà ấy có hàng dãy ở khắp các phố. Ruộng, bà ấy có hàng trăm mẫu ở nhà quê.

Quan, người ta sợ cái uy của quyền thế. Nghị Lại, người ta sợ cái uy của đồng tiền.

Chung quanh cương vị của khởi ngữ (chúng tôi tạm dùng thuật ngữ này chung cho các tên gọi khởi ngữ, chủ đề, từ chủ đề) trong cấu trúc của câu, lúc bấy giờ và về sau, trong những năm 70, 80 đã có những bất đồng giữa cái gọi là khởi ngữ thực thụ với bổ ngữ đảo trí hay một thành tố nào đó trong câu được đài lên phía trước (tương đương với hiện tượng Fronting, hay rộng hơn, là Inversion trong miêu tả cú pháp các tiếng Châu Âu). Một số tác giả thiên về những kĩ thuật miêu tả cú pháp hình thức thì cho rằng thành tố đứng đầu câu, biểu thị chủ đề của câu nói, có thể chuyển về vị trí ban đầu (thường là sau động từ vị ngữ) chỉ là các thành tố được đảo trí chứ không phải là khởi ngữ. Chẳng hạn, các tác giả này cho rằng ngữ đoạn đứng đầu câu trong “Những thú vui nho nhỏ ấy, giờ Mận bỏ hết” chỉ là bổ ngữ đảo trí, bởi lẽ, bằng một phép cải biến vị trí, (là thủ pháp biến đổi một cấu trúc này sang cấu trúc khác theo một quy tắc nhất định với điều kiện là quan hệ ngữ nghĩa giữa các thực từ tham gia sự chuyển đổi đó, về cơ bản, vẫn được bảo toàn) có thể khôi phục lại vị trí ban đầu của ngữ đoạn này: Giờ Mận bỏ hết những thú vui nho nhỏ ấy.

Về mặt phương pháp luận, giai đoạn này nổi lên khuynh hướng dùng lí thuyết từ tổ (cụm từ), một lí thuyết rất thịnh hành ở Liên Xô lúc ấy, áp dụng vào phân tích cú pháp tiếng Việt. Có thể coi người tiêu biểu cho khuynh hướng này là Nguyễn Kim Thản. Ông cho rằng, cần phân biệt thành phần phụ của câu với thành phần phụ của từ tổ (cụm từ). Theo ông, cái gọi là định ngữ và bổ ngữ thật ra không có tư cách thành phần câu. Chúng chỉ là thành phần của các từ tổ danh từ (danh ngữ) và từ tổ động từ (động ngữ) khi các từ tổ này tham gia cấu tạo câu. Nguyễn Kim Thản chỉ thừa nhận trạng ngữ và khởi ngữ là thành phần phụ đích thực của câu tiếng Việt, bởi lẽ những thành tố này không bị bao hàm trong các từ tổ đóng vai chủ ngữ và vị ngữ trong câu.

Cũng theo khuynh hướng này, vấn đề câu đơn và câu ghép (hay phức) cũng được nhìn nhận lại. Câu “Người tôi gặp hôm qua là nhà văn” được xem là câu đơn, bởi vì ngữ đoạn “tôi gặp hôm qua” chỉ là thành tố phụ của từ tổ danh từ “Người tôi gặp hôm qua”. Về sau, vấn đề này còn được xem xét lại, thể hiện qua sự phân biệt câu phức và câu ghép: câu phức là một loại câu đơn mà các thành tố của nó có thể được mở rộng ở dạng một kết cấu C-V (chẳng hạn, câu được dẫn trên đây:“Người tôi gặp hôm qua là nhà văn”), còn câu ghép là câu có từ hai cụm C-V trở lên không bị bao hàm trong nhau (chẳng hạn, “Ông nói gà, bà nói vịt”).

Có thể nói, vấn đề phân biệt thành phần câu với thành phần từ tổ là một trong những vấn đề sôi động nhất của cú pháp tiếng Việt những năm 60, 70, mà hệ quả là hình thành những cách nhìn phi truyền thống đối với một số thành phần câu như đã dẫn trên đây. Tuy nhiên, một số tác giả có quan điểm dung hoà hơn. Chẳng hạn, các tác giả cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” (1975) là Bưstrov, Nguyễn Tài Cẩn và Xtankêvich chấp nhận tính cách nước đôi của các thành phần câu này: “Mỗi một thành phần chủ yếu hay thứ yếu của câu đều có thể được biểu thị bằng đoản ngữ. Các thành phần phụ của đoản ngữ này có thuộc tính nước đôi: một mặt, chúng tham gia vào đoản ngữ, vì sự có mặt của chúng bị ước định bởi các thuộc tính từ vựng-ngữ pháp của hạt nhân đoản ngữ; mặt khác, bởi vì đoản ngữ đi vào thành phần câu nên chúng lại là các thành phần phụ thuộc mà điển hình là định ngữ [1975; 134].

Bên cạnh những nét mới đã dẫn trên đây, cần ghi nhận thêm những nỗ lực áp dụng các lí thuyết ngôn ngữ học khác để nghiên cứu cú pháp tiếng Việt, không chỉ ở trong nước mà còn ở nước ngoài, không chỉ được thực hiện bởi các tác giả Việt Nam mà còn bởi các tác giả nước ngoài. Có hai tác giả nước ngoài đáng được nêu ra ở đây do cái mới mà họ đem đến trong việc phân tích và miêu tả câu tiếng Việt. Đó là Yu.K Lekomtsev và L.C Thompson, cả hai đều vận dụng phương pháp phân tích thành tố trực tiếp (IC), phương pháp rất nổi tiếng của trường phái miêu tả thời bấy giờ, để nghiên cứu câu tiếng Việt.

Yu.K Lekomtsev, tuyên bố là theo tinh thần của Ngữ vị học Đan Mạch, đã biểu diễn sơ đồ đầy đủ cấu trúc câu đơn tiếng Việt theo tầng bậc các thành tố trực tiếp như sau:

E1- (E2- (E3 ((E5 - (E6- (E7- (E9- E8) )- E6) )- E4) ) )
7 6 5 4 3

Sau khi có được mô hình đầy đủ cấu trúc câu đơn tiếng Việt như vậy, tác giả mới xem xét cấu tạo của mỗi thành tố trực tiếp theo tầng bậc (được kí hiệu là En), thành tố đó ứng với tên gọi nào của thuật ngữ truyền thống và vị trí đối đãi của nó đối với thành tố trực tiếp cùng bậc với nó (thường là một tổ hợp) được kí hiệu là Kn. Theo đó, tác giả xác định E1 là các từ tình thái, có thể đứng đầu hoặc cuối câu. E2 là các trạng ngữ chỉ thời gian, được cấu tạo bởi ngữ thể từ, có hoặc không có giới từ, phụ thuộc vào cả kết cấu chứa chúng nói chung, vị trí của E2 đối với K2 là E2-K2, K2-E2, E2-:-K2 (E2 nằm giữa K2). E3 là các trạng ngữ địa điểm, được cấu tạo bởi ngữ thể từ không có giới từ, vị trí đối đãi của E3 so với K3 là E3-K3, K3-E3, E3-:-K3. E4 là những trạng ngữ địa điểm (cũng có khi là trạng ngữ thời gian), được cấu tạo bởi ngữ thể từ với các giới từ dẫn xuất như trong, trên, sau, dưới, bên..., vị trí của E4 đối với K4 là E4-K4, K4-E4, E4-:-K4. E5 là chủ ngữ, được cấu tạo bởi thể từ hay ngữ thể từ không có giới từ, vị trí điển hình của E5 đối với K5 là E5-K5 v.v... [Lekomtsev 1964; 54–63].

Gần như đồng thời với Yu.K. Lekomtsev, L.C. Thompson đã dùng phương pháp phân tích thành tố trực tiếp để nghiên cứu cấu trúc câu tiếng Việt. L.C. Thompson cho rằng lối phân tích câu theo các thành tố trực tiếp (Immediate Constituents) là “kiểu phân tích tỏ ra có lợi nhất theo quan niệm cấu trúc đối với phát ngôn... Đối với người bản ngữ của một ngôn ngữ hay đối với nhà ngôn ngữ học có hiểu biết tốt về ngôn ngữ ấy, sự chia tách thành các thành tố trực tiếp dường như là tương đối đơn giản và trong đa số trường hợp là chẳng gặp rắc rối gì... Cái trực cảm này thực tế là thể hiện một ý sâu có trong cấu trúc của ngôn ngữ” [1965; 109]. Cách phân tích thành tố trực tiếp cho thấy cấu trúc câu tiếng Việt là một kết cấu tiêu điểm (Focal construction) : “Kết cấu tiêu điểm tạo ra những ngữ hạn định với vị từ là đỉnh (head) hay tâm. Các loại thể từ, ngữ thể từ, và thậm chí vị từ xuất hiện như là các bổ ngữ tiêu điểm... Ví dụ:

Nhà cháy rồi

Bạn đã làm cho tôi

Cơm đưa lên

Con chó bị chết

Hai ông ấy học tiếng Việt Nam

Trên bàn có nhiều cây bút chì

Hôm qua mưa to quá

Thế gian có nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta

Hai bên cũng chưa có vợ có chồng

Ở bên nam nóng lắm

Cũng có những từ đơn lẻ xuất hiện như bổ ngữ tiêu điểm mà không phải là thể từ cũng như không phải là vị từ: chúng là một số loại tiêu điểm, được nhận ra do các vị trí (ở trong câu) mà chúng xuất hiện:

Sao ông không đến nhà chơi

Đấy ông thấy làng Phát Diệm

[Thompson 1965; 239–240]

Bổ ngữ tiêu điểm bao giờ cũng đứng ở đầu câu và được phân ra nhiều loại, như có thể được thấy qua biểu đồ khái quát sau đây:

Các loại bổ ngữ tiêu điểm Vị ngữ
Phương thức Thời gian Nơi chốn Chủ đề
Như thế hôm qua tại chợ tôi mua nhiều đồ
Hôm nay tôi quên làm
Vậy hôm nay nóng quá
Ngày xưa ở Việt Nam việc hôn nhân là do bố
mẹ kén chọn
cho con cái

Thompson có lẽ là người đầu tiên thấy được vai trò của tiểu từ thì trong cấu trúc tiêu điểm của câu tiếng Việt và từ đó ông đi đến nhận định rằng chẳng nên phân biệt thứ hạng của chủ ngữ và bổ ngữ (theo thuật ngữ truyền thống) trong hệ thống thành phần câu. Ông viết: “Sự thể là tiếng Việt đã gom nhóm các bổ ngữ tiêu điểm thành một loại lớn (trong đó không có gì khác nhau nhiều giữa các thực thể có dáng dấp như chủ ngữ với các bổ ngữ thời tính, vị trí và phương thức) càng được nhấn mạnh khi quan sát cách dùng tiểu từ thì (focal head particle thì ): nó xuất hiện như là để dựng lên, đánh dấu bổ ngữ chủ đề (focal topic) cũng như các loại bổ ngữ khác” [1965;257]. Thông qua những miêu tả của Thompson về cấu trúc câu tiếng Việt, có thể thấy ông là người đã có một trực cảm nhạy bén về một loại đặc trưng loại hình của tiếng Việt mà sau này một số nhà ngôn ngữ học xếp vào nhóm các ngôn ngữ thiên chủ đề (topic-prominent). Phần lớn những gì được ông gọi là bổ ngữ chủ đề và các loại bổ ngữ khác về sau được những người tuyên bố theo quan điểm Ngữ pháp Chức năng trong tiếng Việt gọi là phần Đề trong cấu trúc Đề-Thuyết, với tư cách là cấu trúc cơ bản của câu tiếng Việt.

Cũng cần nêu ra ở đây những nghiên cứu của Trần Ngọc Ninh, được thể hiện trong bộ “Cơ cấu Việt ngữ” (Lửa thiêng xuất bản, 1973). Điểm mới mẻ của tác giả này là đã thử vận dụng một số luận điểm và thủ pháp của Ngữ pháp Tạo sinh (Generative Grammar) của N.Chomsky vào nghiên cứu cú pháp tiếng Việt. Chẳng hạn, tác giả cho rằng: Cơ cấu chìm nằm trong:

Δ Ta hát lên

Δ i- Ta ↔ hát

ii- Sự hát ↔ lên

Sự biến cải từ cơ cấu nổi có thể biểu diễn bằng biểu đồ cây:

(Trần Ngọc Ninh 1973, 121–122)

Nói chung, Trần Ngọc Ninh đã có ý thức xây dựng một thứ ngữ pháp có năng lực giải thích sự hình thành câu nói. Những rất tiếc là cố gắng của tác giả chưa thật sự đem lại những kết quả khả quan và cũng không có mấy người theo đuổi đường hướng này.

Trong những năm 70, 80 cũng nổi lên xu hướng hình thức hoá trong nghiên cứu cú pháp tiếng Việt, thể hiện ở một số nghiên cứu của nhà Việt ngữ người Nga Panfilov về thành phần câu tiếng Việt. Có lẽ Panfilov đã chịu ảnh hưởng từ những nghiên cứu trước đó của Jakhontov về thành phần câu tiếng Hán, mà tinh thần chủ yếu là xây dựng những thủ pháp phân xuất, nhận diện các thành phần cấu trúc trong câu một cách nghiêm ngặt. Panfilov đã xây dựng “những khái niệm xuất phát” để có thể phân tích và miêu tả câu tiếng Việt một cách có hệ thống và không mâu thuẫn. Chẳng hạn, tác giả đã cố gắng hình thức hoá các thao tác để xác định các quan hệ ngữ pháp trong câu, phân biệt quan hệ ngữ pháp và quan hệ ngữ nghĩa, xem đó là cơ sở để có thể phân tích và miêu tả đúng đắn cấu trúc của câu tiếng Việt. Theo đó trong câu : “Tôi khuyên anh nghỉ”, tác giả chỉ thừa nhận quan hệ ngữ pháp tồn tại trong các kết hợp “tôi khuyên”, ‘khuyên anh”, “khuyên nghỉ”... Giữa “anh” và “nghỉ” không tồn tại quan hệ ngữ pháp, mặc dù quan hệ ngữ nghĩa giữa chúng là rất rõ ràng [Panfilov 1984,66]. Với một sự phân tích như vậy thì câu trên đây sẽ được phân tích theo mô hình thành phần câu có hai bổ ngữ là:

Tôi khuyên anh nghỉ
C V B1 B2

Tương tự với những gì mà Jakhontov đã làm trong tiếng Hán, Panfilov cũng cố gắng “hình thức hoá” khái niệm “tính trọn vẹn”, xem đấy là cơ sở để xác định nòng cốt câu. Nhiều nhà ngôn ngữ học đã khẳng định rằng người bản ngữ nào cũng có cảm thức về tính trọn vẹn của câu, tuy nhiên việc xác định nó một cách hiển ngôn lại không hề là một việc dễ dàng. Jakhontov và Panfilov đã định nghĩa “tính trọn vẹn” thông qua khái niệm “tính không trọn vẹn”, và với cách làm đó, có thể nói là các tác giả đã hình thức hoá được khái niệm "tính trọn vẹn" của câu một cách rất độc đáo.

Cần nói thêm là Panfilov (1980), cũng như nhóm Nguyễn Tài Cẩn, N. Xtankevich, Bưxtrov trước đó (1975) đã đề cập đến cái gọi là cấu trúc “phân đoạn thực tại” hay “phân đoạn thông tin” khi phân tích câu tiếng Việt. Khái niệm này vốn được trường phái Ngôn ngữ học chức năng Praha nêu ra từ những năm 30 và cho đến nay vẫn là một trong những tâm điểm chú ý của các nhà cú pháp học. Trong văn liệu tiếng Việt, Lí Toàn Thắng cũng có một bài viết đề cập đến vấn đề này (1981). Bài viết này hiện nay vẫn được trích dẫn tham khảo trong các luận văn đại học và sau đại học.

Xu hướng hình thức hoá trong nghiên cứu cú pháp tiếng Việt đã được Nguyễn Minh Thuyết thực hiện một cách triệt để đối với chủ ngữ của câu. Tác giả cho rằng những tiêu chí về trật tự và hư từ không đáng tin cậy để phân biệt các nhãn hiệu hình thức trong cấu trúc câu, bởi vậy trong một giải pháp tổng thể, tác giả đã xây dựng một bộ các thủ pháp hình thức, gồm có phép lược, phép thế, phép bổ sung, phép cải biến, phép nguyên nhân hoá nhằm làm bộc lộ những khác biệt hình thức của các thành phần cấu trúc của câu. Trong luận án phó tiến sĩ “Chủ ngữ trong tiếng Việt” (1981), tác giả đã đưa ra những tiêu chí hình thức để phân biệt chủ ngữ với các thành phần câu khác, đặc biệt phân biệt chủ ngữ với bổ ngữ, là vấn đề ít được quan tâm trước đó trong Việt ngữ học. Tiêu chí phân biệt chủ ngữ và bổ ngữ là thái độ cú pháp khác nhau của hai thành phần câu này khi nòng cốt được đưa vào khuôn kiến trúc nguyên nhân (thủ pháp nguyên nhân hoá), với vị từ trung tâm là các động từ khiên động như bắt, buộc, khiến, sai, nhờ... hoặc các động từ đánh giá, nhận thức như cho (là), coi (là)... Chỉ có chủ ngữ mới có thể làm bổ ngữ thể từ tính, hay nói cách khác, chỉ có chủ ngữ mới có thể đứng sau vị từ trung tâm của khuôn kiến trúc nguyên nhân. Việc áp dụng một cách nhất quán các tiêu chí hình thức như vậy đã đem lại những kết quả thú vị. Chẳng hạn, tác giả thừa nhận tư cách chủ ngữ của các ngữ đoạn chỉ chỉ vị trí, nơi chốn trong các câu như “Trên đồn im như tờ”, “Trong nhà ra mở cửa”, hoặc thừa nhận kiểu câu “Tôi còn tiền” có hai loại chủ ngữ khác nhau là chủ ngữ chủ đề và chủ ngữ ngữ pháp... Hướng đi của Nguyễn Minh Thuyết rất đáng được ghi nhận, bởi lẽ hướng đi này mang tinh thần của ngôn ngữ học hiện đại. Như mọi người đều biết, thực chất của cách phân chia loại hình học cú pháp, đối lập các ngôn ngữ đối cách (accusative) và các ngôn ngữ chủ cách (ergative) chính là dựa trên sự đối lập hình thức nhằm phân biệt chủ ngữ và bổ ngữ trong câu. Nói như T. Givón, có thể xem “việc xác định một cách hình thức chủ ngữ trong câu chỉ là một phần của việc phân biệt chủ ngữ và bổ ngữ” [1984, 145].

Trong giai đoạn những năm 70, 80 cần ghi những những phát hiện khác về cơ cấu câu tiếng Việt cùng những đặc trưng ngữ nghĩa-chức năng của chúng. Diệp Quang Ban (1981) và Trần Ngọc Thêm đã thấy được vai trò không thể thiếu được của thành phần vẫn được gọi là trạng ngữ trong câu tồn tại. Đây là luận cứ quan trọng để đi đến sự thừa nhận rằng trạng ngữ trong câu tồn tại thực chất là một loại bổ ngữ bắt buộc của câu, là diễn tố thứ hai của vị từ tồn tại trung tâm (diễn tố thứ nhất là danh ngữ đứng sau vị từ tồn tại). Những nghiên cứu theo lí thuyết kết trị của Tesnière và các kiểu sự tình sau này đều khẳng định nhận định này. Sự phân biệt của Diệp Quang Ban giữa lõi câu và khung câu cũng là một sự phân biệt tinh tế và thuyết phục. Trong những năm 90, trong ngôn ngữ học thế giới, một số nhà ngôn ngữ theo hướng ngữ pháp ngữ nghĩa như S. Dik, Van Valin cũng chủ trương một sự phân biệt tương tự như vậy khi phân tích câu.

Chịu ảnh hưởng của “Lí thuyết phân đoạn thực tại” cùng những nghiên cứu về cái gọi là “Phối cảnh chức năng” của câu, Lưu Vân Lăng và sau đó Trần Ngọc Thêm (1985) đều dùng các khái niệm Đề, Thuyết để miêu tả nòng cốt câu tiếng Việt. Từ những năm 70, Lưu Vân Lăng đã chủ trương phân tích câu theo ngữ đoạn tầng bậc có hạt nhân. Sau này, ý tưởng của tác giả được trình bày cụ thể như sau: “nòng cốt câu do thành tố nòng cốt (đề tố, thuyết tố) tạo nên. Hạt nhân đề tố, thuyết tố đều có thể phát triển thêm các phụ tố. Hạt nhân vị từ phát triển thêm bổ tố và trạng tố... Ngoài nòng cốt chỉ là những bộ phận thêm gọi là gia tố... Trước hết đây là những bộ phận có tính biệt lập như chú giải, hô ngữ (than gọi)... Lại có những bộ phận không biệt lập như: chuyển tiếp, dẫn khởi... Trên thực tế các gia tố như dẫn khởi, chuyển tiếp, hô cảm thường đặt ở đầu câu. Nhưng có khi gia tố (như chú giải, hô cảm...) không những đứng ở cuối mà còn chen vào giữa... Nên khi phân tích câu, cần phân biệt nòng cốt với gia tố, để thấy rõ phần đề, phần thuyết” [1987,18–19].

Như đã thấy, cặp khái niệm đề/thuyết của Lưu Vân Lăng dùng để phân tích cấu trúc cú pháp của câu thực chất chẳng khác gì cặp khái niệm chủ ngữ/vị ngữ của truyền thống. Chúng khác xa với cặp khái niệm Sở đề-Sở thuyết được Cao Xuân Hạo dùng sau này. Trong khi đó, tuy cũng dùng cặp khái niệm Đề-Thuyết, nhưng Trần Ngọc Thêm vẫn giữ nguyên những khái niệm thành phần câu truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, bổ ngữ ... Tác giả cho rằng câu tiếng Việt có 4 loại nòng cốt như sau:

Nòng cốt đặc trưng: C → V
Nòng cốt quan hệ : C → V-B
Nòng cốt tồn tại : Tr → V-B
Nòng cốt qua lại : xA→yB (xem [1])

Như vậy, quan hệ đề-thuyết mà Trần Ngọc Thêm dựa vào để xác định nòng cốt câu không đồng nhất với quan hệ chủ vị, cũng không đồng nhất với quan hệ nêu-báo thường được dẫn ra trong phân tích phân đoạn thực tại câu. Tác giả cho rằng: “Cấu trúc của mọi câu đều chia làm 2 phần: một phần là trung tâm ngữ pháp (trung tâm tổ chức) của câu, gọi là phần đề...: còn phần kia là trung tâm ngữ nghĩa của câu, gọi là phần thuyết... nó luôn luôn đứng sau phần đề” [1985, 50]. Có thể thấy rằng định nghĩa này thiếu hẳn những tiêu chí hình thức cho phép nhận biết các thành phần đề, thuyết và điều đáng nói hơn là, ta không rõ tác giả đã thực sự đứng ở địa hạt nào để xác định nòng cốt câu, chẳng lẽ nòng cốt câu lại là sự kết hợp của một trung tâm ngữ pháp (đề) với một trung tâm ngữ nghĩa (thuyết)? Tuy nhiên, với cố gắng nối kết cú học với nghĩa học (theo nghĩa rộng), Trần Ngọc Thêm đã tỏ ra có cái nhìn chức năng trong việc nghiên cứu câu.

Những thành tựu nghiên cứu cú pháp tiếng Việt cùng với sự hình thành đội ngũ những nhà nghiên cứu ngữ pháp đã dẫn đến sự ra đời của công trình tập thể “Ngữ pháp tiếng Việt” của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam vào năm 1983. Có thể đánh giá công trình này theo nhiều cách khác nhau. Có thể cho rằng đây là một công trình rất sâu sắc nhưng giản dị, dễ hiểu và dễ vận dụng. Tuy nhiên, cũng có thể thấy tính chất thoả hiệp, cố gắng dung hoà các ý tưởng khác nhau được thể hiện một cách không thực sự nhuần nhuyễn trong công trình này. Chẳng hạn, việc gạt bỏ bổ ngữ ra khỏi danh sách thành phần câu (xem chúng chỉ là thành phần của cụm từ) là dấu ấn của lí thuyết từ tổ trong phân tích cú pháp. Việc sử dụng cặp tên gọi Đề-Thuyết để miêu tả nòng cốt câu là ảnh hưởng của lí thuyết “Phân tích câu theo tầng bậc hạt nhân” (do Lưu Vân Lăng khởi xướng). Còn việc biểu diễn cấu trúc các đoản ngữ (gồm các thành tố phụ đằng trước và đằng sau quây quần quanh trung tâm) là phản quang của những thành tựu nghiên cứu cấu trúc đoản ngữ tiếng Việt.

Nguyễn Văn Hiệp

[1] Liên kết hệ thống văn bản tiếng Việt. Nxb Giáo dục, 2001, trang 48:

Nòng cốt đặc trưng: CT → VR
Nòng cốt quan hệ : CT → (Vq-B)R
Nòng cốt tồn tại : TrT → (Vt-B)R
Nòng cốt qua lại : xVT→yVR

Xem phần 1 (trước 1945)

Xem phần 3 (từ 1990)