Trang nhà > Lịch sử > Cận đại > Những tiến sĩ Đức trong hàng ngũ Việt Minh (2)
Những tiến sĩ Đức trong hàng ngũ Việt Minh (2)
Thứ Năm 26, Tháng Mười Một 2009
Từ trái sang phải: Dương Bạch Mai, Ernst Frey / Nguyễn Dân, Trường Chinh, Lê Văn Lương, Georges Wächter / Hồ Chí Thọ, Rudy Schröder / Lê Đức Nhân
(Bộ ảnh sưu tầm của H. Schütte)
VI – Vượt khỏi sự dấn thân dân tộc...
Đến đây, tôi muốn dành đôi dòng để nêu câu hỏi này: Vì sao Schröder và Borchers đã sẵn sàng hợp tác với cuộc kháng chiến của Việt Minh và đã tham gia Việt Minh với “lương tâm yên ổn và hăng hái tin tưởng” [32] ? Đối với những người yêu nước và dân tộc chủ nghĩa (câu hỏi này đặt ra cho người Đức và người Áo trong hai cuộc thế chiến, và cho người Pháp trong các cuộc chiến tranh thuộc địa), câu hỏi đặt ra là: làm sao tưởng tượng nổi là người ta rời bỏ cái nôi quốc gia tự nhiên và đứng sang hàng ngũ địch? Cần phải nhấn mạnh là Schröder cũng như Borchers đều không phải là những người cộng sản chính thống, họ không coi cách mạng là mục tiêu tối thượng.
Vậy thì cái gì đã thúc đẩy họ rời bỏ hàng ngũ? Ban đầu, như ta thấy, quyết định đầu quân Lê Dương là do hoàn cảnh đưa đẩy. Đối với Schröder, thế giới “thiếu sự nhất quán”, “chẳng có cách nào thoát khỏi phi lí”.[33] Nhưng bước sau, gia nhập Việt Minh, là một quyết định gay go hơn nhiều, bởi vì đi với Việt Minh là qua sông đốt cầu với Tây Âu. Cảm tưởng của tôi là đối với người trí thức – nhưng không riêng gì trí thức – có một sự “giác ngộ”, một ước vọng về một thế giới ‘tự nhiên’, thì ý muốn tham gia vào một chính nghĩa vừa có tính chất chính trị vừa có tính chất đạo lí... Sự giác ngộ ấy được thể hiện trong tập chuyện tranh nhan đề Les Oubliés d’Annam (Những người bị quên lãng ở An Nam): sau ngày Paris giải phóng, một thanh niên kháng chiến Pháp đầu quân vào Lê Dương để tiếp tục chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít, và phải đối mặt với một biến cố làm anh phải nhìn thế giới với một con mắt khác. Một tên lính Lê Dương, cũng người Pháp, cãi nhau với người phu xich lô về giá cả chuyến xe, rồi rút dao đâm chết anh xích lô. Anh thanh niên Pháp khởi tố tên lính Lê Dương, tên này chỉ bị 15 ngày tù. Anh viết thư cho mẹ: “Con không những tham gia vào một cuộc chiến tranh bẩn thỉu, mà còn ở trong một quân đội gồm những tên sát nhân. Ô nhục quá...”. Và “càng ô nhục hơn nữa, vài ngày sau, người đầu bếp trại lính vốn khoái thịt chó đã bị kết án một tháng tù vì tội làm thịt con chó của đại uý”[34]. Claudia Borscher, con gái của Erwin, xác nhận với tôi là cha cô thường hay kể lại câu chuyện đã khắc sâu vào tâm khảm của ông. Câu chuyện ấy biểu hiện cấu trúc xã hội của chủ nghĩa thực dân, nó làm lộ rõ những mâu thuẫn của thế giới chúng ta đang sống. Và giúp chúng ta nhìn nó với một khoảng cách.
Điều đó rất đúng đối với Ernst Frey, sinh năm 1915 trong một gia đình Do Thái Hung-ga-ri không còn sùng đạo. Cha là một đảng viên dân chủ xã hội khát khao trau giồi văn hoá. Thế giới của gia đình này gói gọn trong biên giới quốc gia, ngôn ngữ và tôn giáo của đế chế Áo-Hung. Truyền thống Do Thái trở thành chủ đạo từ khi bọn Nazi giam hãm họ trong truyền thống ấy. Sau một thời tuổi trẻ say mê sùng đạo Công giáo, chàng trai Ernst đã tìm thấy con đường cộng sản chủ nghĩa thông qua giai đoạn dân chủ xã hội và hoạt động trong VSM (Hội học sinh xã hội chủ nghĩa). Phải nói thêm là hành trình của Ernst mang nặng dấu ấn kinh nghiệm cá nhân về chủ nghĩa bài Do Thái và chủ nghĩa quốc xã. Ernst Frey đã tìm thấy ở chủ nghĩa Marx một phản mô hình cung cấp cho anh những công cụ cần thiết để đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.
Năm 1934, “gia nhập Liên đoàn cộng sản thanh niên”, Frey viết, “tôi đã trao hiến toàn bộ con người tôi cho đảng”. Câu tiếp theo rất có ý nghĩa vì nó giúp ta hiểu nhiều khúc quay ngoắt trong cuộc đời phong ba của Ernest Frey: “Sự quy phục toàn diện của tôi là tự nguyện, không một chút do dự, tôi đặt Đảng lên trên mọi giá trị”. Con người ông bị ám bởi một thứ chủ nghĩa Mêsia nửa chính trị nửa tôn giáo, bởi mặc cảm cứu rỗi được biện minh bởi sự bức hại của chế độ Nazi. Do “hoạt động trong một hội kín (VSM) và bị lên án phản quốc”, Frey đã bị bỏ tù và “vĩnh viễn khai trừ” khỏi các trường đại học trên toàn nước Áo.[35] Ngày 15 tháng ba 1938, “cả thành phố Vienna bị thất điên bát đảo – Führer tiến vào thành phố”. Mẹ của cậu Ernst “giữa ban ngày ban mặt bị đánh đập, phết sơn lên khắp người, nhục mạ, phỉ nhổ và nhạo báng hàng giờ liền”. Cuối cùng, trước tối hậu thư, “phải chọn lựa giữa tù đày hay lưu vong”, Frey quyết định xung phong vào Lữ đoàn quốc tế ở Tây Ban Nha. Trên đường đào vong, ông bị bọn SS bắt được, giam cầm trong tù ba tháng rồi bị đại đế chế Đức truất tịch. Sang Paris, ông đi gõ cửa từng nhà để chào bán bút chì. Khi chi bộ đảng quyết định không cho phép sang Tây Ban Nha, Frey đăng kí đầu quân 5 năm vào Lê Dương để chống Hitler; đói meo, không một xu dính túi. Ngày 17 tháng ba, ông lên tàu Dupleix ở hải cảng Casablanca; ngày 1 tháng bảy 1941 cặp bến Sài Gòn. Cuối năm ấy, cùng với Schröder, Borchers và mấy người khác, Frey thành lập một chi bộ cộng sản trong đội quân Lê Dương đồn trú ở Việt Trì.[36]
Công phẫn trước sự hợp tác Pháp-Nhật và sự móc ngoặc với các nước phe trục, họ tìm cách bắt liên lạc với những đảng viên xã hội Pháp ở Hà Nội. Họ cũng tìm cách bắt chuyện với những người An nam mít ở Việt Trì, nhưng quả là xôi hỏng bỏng không, vì dường như người bản xứ không thể nào tưởng tượng được là có những người Âu quan tâm tới họ, muốn thảo luận với họ. Trong các buổi họp bí mật của chi bộ, lúc đầu họ còn bàn tới chiến tranh và mổ xẻ chủ nghĩa phát xít, nhưng chẳng mấy lúc, đề tài chủ nghĩa thực dân đã trở thành chủ đạo.[37] Họ muốn thống nhất chi bộ của họ và bộ phận địa phương của kháng chiến Pháp thành một mặt trận thống nhất để bắt liên lạc với Đảng cộng sản Đông Dương hay Việt Minh. Tháng mười một 1943, ở trung tâm Hà Nội, gần hồ Hoàn Kiếm, Frey gặp một đại diện cấp cao của ĐCSĐD. Cuộc gặp do Georges Walter dàn xếp qua sự trung gian của Louis Caput, bí thư Đảng bộ Bắc Kì của Đảng xã hội Pháp.[38] Đầu năm 1944, Borchers gặp tổng bí thư đảng, Trường Chinh, “trên một cánh đồng ruộng gần Hà Nội”,[39] tuy lúc đó Trường Chinh không nói mình là ai. Tôi có cảm tưởng chi bộ Lê Dương đã được sáp nhập vào ĐCSĐD vào đầu mùa hè 1944, [40] và đó là mối liên hệ duy nhất thực sự giữa Việt Minh và nước Pháp tự do trước ngày Nhật đảo chính 9 tháng ba 1945. Trường Chinh đã đề nghị các phần tử người Âu chống phát xít hãy cộng tác với Việt Minh song không nhóm nào, phe De Gaulle hay Đảng xã hội, muốn chấp nhận ý tưởng một nước Việt Nam độc lập. Viễn cảnh liên minh quân sự Âu-Việt chống Nhật với mục tiêu Việt Nam độc lập đã tan biến.
VII - …tiến tới đoàn kết cộng hoà & chống thực dân
Sau ngày 9 tháng ba, một vài người Pháp quy phục Việt Minh vì muốn trốn tránh sự đàn áp của quân Nhật. Borchers, Frey và Schröder cùng mấy ngàn binh sĩ bị Nhật bắt làm tù binh, lúc đầu bị giam trong thành Hà Nội, sau đó bị đưa lên trại “tận diệt” gần Hoà Bình.[41] Họ bị lao đao vì bệnh kiết lị và thương hàn. Nhật Bản đầu hàng ngày 15 tháng tám, Việt Minh tiến hành Cách mạng tháng Tám như một dòng thác lũ dân tộc chủ nghĩa. Schröder ghi : “Người an-nam-mít đã trở thành người Việt Nam”.[42] Ngày 2 tháng 9, Hồ chủ tịch tuyên bố độc lập với mục đích xây dựng một quốc gia đoàn kết thành một khối thống nhất và thuần nhất.
Các tù binh được trả tự do ngày 16 tháng 9. Frey-Schröder đã có nhiều cuộc họp với các đảng viên xã hội tập hợp chung quanh Louis Caput, có lẽ với sự thoả thuận ngầm của Jean Sainteny, với mục đích dùng các đảng viên chi bộ làm trung gian nhằm đưa chính phủ Hồ Chí Minh nhận thương lượng với các đại diện của Pháp có mặt tại chỗ, nhưng đại diện Pháp không chấp nhận độc lập là điều kiện tiên quyết – tối cùng, họ chỉ chấp nhận thảo luận về những phương thức đưa tới một nền độc lập trong tương lai. “Họ vẫn dùng chữ An-na-mít”, Frey nhận xét, “còn chúng tôi nói: Người Việt Nam”.[43]
Frey thu xếp với Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp để ông và hai bạn Walter Ullrich và Georges Wächter chuyển sang hàng ngũ Việt Nam, vì như lời Borchers, “nơi đây, triết học sắp trở thành thực tiễn, và tôi có cảm tưởng họ sẽ cần tới chúng ta”.[44] Cuộc đào ngũ của họ được nguỵ trang thành một công tác gián điệp cho chính quyền Pháp (như Schröder viết) hay một công tác do Caput-Sainteny giao cho nhằm thuyết phục những người lãnh đạo Việt Minh chịu thương lượng với Uỷ viên Cộng hoà Pháp ở Bắc Kì. Nhóm đồng chí đi ra khỏi Thành cổ Hà Nội trong một chiêc xe Buick cũ. Tôi mường tượng công cuộc mới này quyến rũ và kích động họ tới mức nào. Họ vừa sống sót sau một cuộc đại chiến, họ còn trẻ tuổi, và chắc mẩm đã tìm ra chính nghĩa...
Đầu mùa thu 1945, Nhật đầu hàng và Việt Nam tuyên bố độc lập, người Pháp không còn có thể nói họ ở Đông Dương để đánh các lực lượng phát xít phương Đông như trước đó họ chiến đấu chống Đức quốc xã và chính quyền Quốc gia Pháp cô-la-bô. Nói như vậy chẳng ai tin. Từ nay, rõ ràng người Pháp là kẻ xâm lăng, chống lại những người yêu nước, những người quốc gia đang bảo vệ nền độc lập của đất nước; một cách nào đó, họ đã trở thành bọn Nazi của người Việt Nam và Việt Minh. Quân lính Pháp ngày càng thắc mắc, nghi hoặc : “Trước mặt họ, người ta nói thế, là Cộng sản; nhưng Cộng sản là như thế nào? Ở Pháp, chính đảng số 1 không phải là Cộng sản sao?... Có thể nào tin vào lời nói cửa miệng của bọn lãnh đạo tồi tệ như vậy không?... Có một điều họ chắc chắn : trước mặt họ, là những người Việt Nam chiến đấu cho độc lập của đất nước họ”.[45]
Vì thế mà có một số, với những động cơ khác nhau, đã quyết định bước sang hàng ngũ “bên kia”, trong đó có những quân nhân Nhật và những người trong lực lượng võ trang Pháp (trong đó phải kể những người Maroc, người Algérie) và một số dân sự. Họ mang tới cho Việt Minh những tri thức quân sự và kĩ thuật.
Frey có viết về những người lính Nhật đào ngũ mà Ban chấp hành Trung ương ĐCS Việt Nam sử dụng rất thận trọng vì nghi họ có thể làm gián điệp... Stefan Kubiak, một người Ba Lan táo bạo, tỏ ra là một người thợ máy cừ khôi, có biệt tài là “cái thú sửa chữa các vũ khí bị hư hỏng hay mới chiếm được của địch như đại bác, súng cối...”[46]. Tài sửa chữa thần thông của Kubiak rất có ích cho Việt Nam trong những năm đầu.
Trong những người đổi hàng ngũ nói trên, có những người đã làm vì tinh thần đoàn kết xuyên quốc gia, họ “đã chọn một tổ quốc mới, tin tưởng vào nhân sinh quan và đường lối chính trị của tổ quốc mới – họ nói tới tổ quốc cũ như là nói tới một đất nước thù địch”.[47] Sau khi những người “phản quốc vì lí tưởng” ấy đã bước sang “bên kia”, họ được tổng bí thư Trường Chinh phân công vào cơ quan tuyên truyền (riêng Walter Ullrich công tác trong quân đội, sau được phong hàm trung tá, dưới bí danh Hồ Chí Long; còn Georges Wächter tức Hồ Chí Thọ trước khi làm báo đã theo học trường kĩ sư ở Vienna, nên được sắp xếp làm công tác kĩ thuật và tổ chức). Schröder làm bình luận viên Đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam, còn Frey làm việc dưới quyền tướng Giáp, nghiên cứu quân sự và tổ chức những lớp học quân sự đầu tiên cho Quân đội Nhân dân. Borchers mang quân hàm trung tá, làm chính uỷ phụ trách tuyên truyền địch vận; ông có nhiệm vụ biên tập các tài liệu tuyên truyền tiếng Pháp và tiếng Đức, và từ năm 1951 trở đi, phụ trách tuyên huấn cho khối tù binh Lê Dương người Đức. Bộ ba Borchers, Frey và Schröder chuẩn bị xuất bản tuần báo La République (Cộng hoà), rồi Le Peuple (Nhân Dân) “nhằm làm cho người Pháp thấy chính phủ Việt Nam và Việt Minh không phải là phiến loạn mà là những tổ chức hợp pháp, dân chủ. Mọi mưu toan dùng võ lực tái chiếm sẽ được coi là vi phạm nhân quyền”.[48] Có lẽ những tờ báo này cũng nhắm cả giới độc giả thượng lưu Việt Nam biết tiếng Pháp.
Báo Le Peuple ra từ ngày 7 tháng tư đến 26 tháng chín 1946; nó kêu gọi tất cả những người thiện chí hảy ủng hộ nền độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, nghĩa là phản đối việc tách Nam Kì ra khỏi chủ quyền Việt Nam như Truman, Stalin và Churchill đã quyết định hồi tháng bảy-tám 1945 ở Potsdam. Các tiến sĩ người Đức (Jacques Doyon[49] đã gọi họ như vậy) viết báo dưới những bút hiệu: Frey thì kí tên là Nguyễn Dân, Borchers trở thành Chiến Sỹ, Schröder kí Lê Đức Nhân hay Walter R. Stephen; còn một người Đức nữa, Siegfried Wenzel, thì lấy bút hiệu Đức Việt. Họ trở thành những người Việt mới: “nơi ấy từ nay là tương lai, là tiền đồ của tôi, tôi tin chắc ở điều đó”, sau này Frey đã viết như vậy, còn Schröder thì khẳng định: “cả ba chúng tôi đều coi Việt Nam là tương lai của chúng tôi, và thật sự đã là đất nước của chúng tôi rồi”.[50]
VIII – Vỡ mộng, tìm đường trở về
Các nhà lãnh đạo của nước Việt Nam mới chủ yếu là những trí thức hay những nhà cách mạng chuyên nghiệp, phần đông đã học trường trung học Pháp-Việt và thạo tiếng Pháp, nhưng họ chưa bao giờ là những nhà chiến lược quân sự, kĩ thuật viên, kính tế gia hay những người tổ chức bộ máy hành chính. Vì vậy những người ngoại quốc từ bỏ hàng ngũ để đi theo kháng chiến, quân nhân cũng như dân sự, học thức cao và có khả năng kĩ thuật, trung thành với sự nghiệp kháng chiến và sẵn sàng hi sinh, đã được hoan nghênh tích cực, một số đã giữ những vị trí cao.
Borchers, như đã nói trên, được cử làm chính uỷ, với quân hàm trung tá trong quân đội, phụ trách địch vận. Hữu Ngọc, nhà báo và nhà văn nổi tiếng, phụ trách khối “hàng binh” người Âu trong thời kì chiến tranh (dưới quyền chỉ huy của tướng Nguyễn Chí Thanh). Từ năm 1947, cùng với bạn là Borchers, đã ấn hành các tờ báo Waffenbrüder – Kampforgan der Deutschen im Dienste Viet-Nams và Frères d’armes – Organe de Combat des Amis du Viet-Nam (Chiến hữu — Cơ quan ngôn luận của những người Bạn của Việt Nam). Đến năm 1950, hai tờ này đổi tên thành Heimkehr và Retour (Trở về). Chiến Sỹ còn dạy tiếng Đức cho Hữu Ngọc, và “nhất là văn hoá Đức!” (theo yêu cầu của Hữu Ngọc). Giữa thập niên 1950, Hữu Ngọc đã dịch các chuyện kể của anh em họ Grimm ra tiếng Việt – âu cũng là hệ quả thứ yếu của một cuộc chiến tranh ghê gớm từ đó đã nảy sinh những gì anh hùng, cao đẹp nhất cũng như những gì thú tính và tàn bạo nhất của con người.
Sau trận Điện Biên Phủ, Borchers về Hà Nội công tác ở Bộ thông tin. Cuối thập niên 1950, làm thông tín viên cho ADN (Thông tấn xã Đông Đức), đồng thời cung cấp “tin tức nội bộ” cho đại sứ quán CHDCĐ. Cho đến ngày nay, tên tuổi Chiến Sỹ vẫn còn là một huyền thoại, song, cũng như mọi huyền thoại, đương nhiên nó đã được gạn lọc, mọi “thực tế phũ phàng” đều bị gạt ra để phục vụ lợi ích cách mạng... Georges Boudarel, bạn thâm giao của Borchers, đã kể lại cho tôi rằng Chiến Sỹ cũng đồng tình với ông trong thái độ phê phán ngày càng mạnh đối với Đảng. Đúng là Borchers đã tiêm nhiễm tư tưởng xét lại từ năm 1956 lan truyền trong Đảng – Borchers và Boudarel đều bị quy kết là thành phần xét lại. Mặt khác, đối với các đại diện Đông Đức ở Hà Nội thì Borchers bị coi là quá Việt Nam, còn đối với người Việt Nam, tôi ngờ rằng Borchers vẫn bị coi như người nước ngoài. Tất cả những yếu tố ấy gộp lại đã góp phần đưa tới ý định trở về Âu châu, song những cuộc ném bom Mĩ bắt đầu ở miền Bắc mới là nguyên nhân quyết định: Borchers ngán sợ chiến tranh, ông nói thẳng với vợ con là ông không kham nổi thêm một cuộc chiến tranh nào nữa. Trong suốt những năm 1946-54, ông chịu đựng được đói khổ, bệnh tật, hiểm nguy, vì thời đó có lí tưởng, có bầu không khí anh em đồng chí, có sự đổng tâm nhất trí. Ước muốn của Borchers là về sống ở sinh quán là thành phố Strasbourg, nhưng Strasbourg thuộc lãnh thổ Pháp, mà đối với chính quyền Pháp ông là đào ngũ và phản quốc. Vì vậy, năm 1966, cùng với bà vợ và sáu trong số bảy người con, Borchers về sống ở Cộng hoà Dân chủ Đức. Tại đây, ông được xếp vào làm việc ở Ban Phi châu của Đài phát thanh quốc tế Berlin. Về mặt chính thức, Borchers được coi là một chiến sĩ chống phát xít và quốc tế chủ nghĩa, nhưng năm 1968, ông bị Đảng kỉ luật vì đã biểu lộ cảm tình với phong trào Mùa Xuân Praha. Một báo cáo của cơ quan Stasi hồi tháng tám 1968 ghi rằng Borchers thường tỏ ra “không quán triệt đường lối của Đảng ta”, liên tục “thắc mắc hoài nghi những mục tiêu” mà Đảng đề ra.[51] Năm 1985, Borchers đốt sạch giấy tờ, ảnh chụp, rồi chạy sang Tây Berlin ở đó cho đến ngày ông chết (bốn năm sau). Còn người vợ cũ của ông, thì cách đây vài tuần, đã từ trần tại Berlin.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nguyên là giáo sư sử học. Nghệ thuật quân sự, ông phải học từ A tới Z; tôi ngờ rằng trong quá trình tập sự ấy của tướng Giáp, có phần đóng góp của người bạn ông là Nguyễn Dân. Ernst Frey tham gia Việt Minh, được cử làm cố vấn quân sự cho tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp (các bạn của Frey, trong các thư từ trao đổi, thường gọi ông là Gottöberst, tức là người ở bên cạnh Thượng đế) và cho một nhân vật huyền thoại là tướng Nguyễn Sơn, “đối thủ” của Giáp. Khi được trao nhiệm vụ phụ trách Khu IX là khu vực bảo vệ ATK (An toàn khu, cơ sở của các cơ quan trung ương Đảng và Chính phủ), Frey trở thành uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng. Là một người ham thích quyền lực, đến năm 1949-50, khi các cố vấn Trung Quốc xuất hiện, Frey không thể không nhận ra rằng mình không còn cần thiết đối với Việt Minh như hồi 1945. Trong bản thảo để lại, Frey kể lại nỗi tuyệt vọng của mình trước bầu không khí khủng bố và chính sách thanh lọc bộ máy đảng, trước tình huống cuộc cách mạng bắt đầu ăn thịt những đứa con của chính mình. Cũng cần nói thêm: chính Frey đã ra lệnh (cho Walter Ullrich tức Hồ Chí Long) xử tử hai cựu binh lê dương bị tình nghi. Nhưng, như tôi đã nhấn mạnh ở phần trên, Frey mang nặng mặc cảm “cứu thế” – ông toàn tâm toàn ý hiến thân cho giấc mộng ý thức hệ là cải tạo thế giới, một thế giới mà ông cho là “tính bản ác”. Căn bệnh cuồng loạn hưng phấn (hystérie enthousiaste) ấy ở Frey là do di truyền từ bà mẹ. Mặt khác, Frey có đủ dũng cảm để tự vấn triệt để một khi ông thấy là sự nghiệp tiến bộ mà ông từng phục vụ đã trở thành thoái bộ. Ở Việt Nam, tới thời điểm quyết định, Frey nhận thấy mình đang phục vụ cho cái Ác mặc dầu ông đã phục vụ với tất cả thiện ý. Frey là một thứ tu sĩ thừa sai, tin tưởng ở ngày Tận thế gần kề, thậm chí, như ông đã kể lại cuộc đấu tranh với quỷ dữ cho Pierre Sergent : “Tôi nhìn thấy mình đang vật lộn với bọn ác quỷ ngự trị để giải thoát nhân loại, như chúa Jesus vậy... Tôi biết, tôi ngộ”.[52] Ông tự nhiên thấy những ảo ảnh hiển linh, bị mặc cảm tội lỗi dằn vặt, trong lòng như bị quỷ ám, và quyết tâm đi tìm sự cứu rỗi – cứu mình thoát khỏi chính mình, hay thoát khỏi một tình cảnh không lối thoát? – trong sự tân tòng Công giáo. Thế là kết thúc vĩnh viễn thời kì cộng sản trong cuộc đời Ernst Frey. Tại Việt Nam, tôi được nghe kể là Frey trở thành vĩ cuồng, rồi phát điên. Tháng năm 1951, ông lên đường về Áo. Vài năm sau, trở thành con chiên sùng đạo. Vốn là người nhiệt tâm, tất nhiên ông phục vụ say sưa cho Giáo hội công giáo, “ngoài Giáo hội, không thể có cứu rỗi”.
Như vậy là khi nhận thấy trong hàng ngũ Việt Minh, mình đã mất dần ảnh hưởng và trở thành vô dụng, Frey đã “phát điên”. Để tìm ra đáp án cho một thực tế quá đớn đau, ông đã chọn giải pháp tín ngưỡng. Đó cũng là cách giải quyết cùng một lúc hai vấn đề: rời Việt Nam và trở về nước. Thật vậy, tôi tự hỏi, muốn trở về và được chấp nhận, trong tình cảnh của E. Frey, phải chăng chỉ có một cách là trở về như một người “khác” – “khác” con người trước kia phải ra đi vì bị ruồng bỏ – cụ thể là trở về như một tín đồ Công giáo sùng đạo. ‘Giải pháp’ này có ưu điểm là nó thoả mãn truyền thống văn hoá thống trị của nước Áo. Bằng sự ‘tái sinh’ trong niềm tin Công giáo, Frey có thể tìm ra chỗ đứng trong xã hội Vienna. Ở một cấp độ khác, theo đạo còn là cách tiếp tục cuộc thánh chiến thường trực mà ông đeo đuổi là giải thoát thế gian khỏi sự ngự trị của
cái Ác.
Về tới Vienna năm 1951, Frey đến trụ sở Đảng cộng sản để báo cáo về các hoạt động và chiến tích của mình từ năm 1938. Rồi ông lấy vợ, sinh được hai đứa con gái, sống bằng nghề đi chào hàng may dệt. Tại Vienna, quây quần chung quanh Frey là cả một lứa thanh niên say mê nghe ông kể chuyện quá khứ, coi ông là cha đẻ tinh thần, là mẫu mực chính trị. Chưa hết. Công việc chào hàng nay đây mai đó, đưa ông đi khắp các miền nước Áo và nước Đức, cũng là cơ may để ông thoát ra khỏi kiếp sống tiểu tư sản và thân phận một người kể chuyện. Thật ra, Frey có máu cờ bạc, đi chào hàng cũng là dịp đi khắp các sòng bạc. Trên thảm xanh của sòng bạc, chẳng hạn như sòng bạc Baden-Baden, nửa say nửa tỉnh, ông muốn tìm lại những cảm giác mạnh của những cuộc phiêu lưu mạo hiểm đã lùi vào quá vãng, mà nay ông muốn tái tạo trên chiếu bạc dưới con mắt dò xét của hồ lì. Vào những năm cuối đời, Frey bỏ đạo để hoạt động bảo vệ môi trường, rồi lại đùng đùng bỏ đảng xanh, về làm đầu bếp tại xứ đạo của một người bạn là linh mục Faust, làm việc quần quật để trang trải những món nợ sòng bạc. Ông từ trần năm 1994 tại Vienna, với lời trối trăng để lại cho hai người con gái: “Các con phải xuất bản cho được cuốn sách của bố”.
Còn đối với Rudy Schröder, xác tín duy nhất của ông là sự phi lí của cuộc sống: không phải tình cờ mà ông đã nghiền ngẫm tác phẩm Hiện hữu và Hư vô [1]. Trong thư viết ngày 29 tháng năm 1946 cho vợ, ông đề cập tới khả năng hai vợ chồng sẽ sinh sống ở Việt Nam. Tháng chạp 1946, khi chiến tranh bùng nổ, Schröder được phong trung tá, và tình nguyện xin ra tiền tuyến. Ngày 9 tháng tư 1948, tướng Giáp (bí danh Văn) viết thư mừng chiến công của Schröder : “J’apprends avec joie ton retour. Et avec beaucoup de plaisir le joli coup de main que tu as dirigé contre les Tho Phi… Cordialement ton Van.”[53] (dịch từ nguyên bản tiếng Pháp : “Tôi vui mừng được tin anh trở về [từ tiền tuyến]. Và rất thú vị thấy anh đã giáng cho bọn thổ phỉ một cú ngoạn mục... Thân mến, Văn”). Sau đó, ông được phân công làm địch vận. Tham gia mặt trận Lạng Sơn, ông được trao nhiệm vụ chỉ huy Biệt đội Tell, một thứ quân Lê Dương của Việt Nam, gồm những tù binh đã tình nguyện thành hàng binh. Khuôn khổ bài này không cho phép tôi đề cập tới các vấn đề liên quan tới đơn vị này – vả lại nó không được vũ trang đầy đủ, ăn mặc thiếu thốn, nhiệm vụ vạch ra không rõ ràng, nên chẳng mấy lúc đã thất vọng... một chứng nhân của thời kì này, hoạ sĩ kiêm nhà văn Trần Duy, cho tôi biết những người lính lê dương cũ này đã trở thành mối hoạ cho dân chúng địa phương, cưỡng hiếp đàn bà con gái, giết cả trâu cày của nông dân.[54] Schröder tin chắc là đã xảy ra một cuộc bạo loạn và âm mưu quay về phía Pháp, nên đã thành lập toà án quân sự và cho xử tử hình sáu người mặc dầu trong bản khai lí lịch tháng mười một 1951, ông thừa nhận rằng “quyết định này vượt quá quyền hạn sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam của tôi”.[55] Ông bị Đảng phê bình. Và đó cũng là nguyên nhân tại sao – hay cũng chỉ là cái cớ – ông không còn được tướng Giáp sủng đãi nữa.
Các cuốn nhật kí viết ở Việt Bắc của Schröder là nguồn tư liệu quý giá giúp ta hiểu nhiều điều, đặc biệt là mối quan hệ giữa hàng binh người Âu và các đồng chí Việt Nam của họ. Schröder “cảm thấy bị bỏ rơi như một người làm công bị sa thải vậy”. Tháng tám 1951 ông rời Việt Nam, tháng mười một về tới Cộng hoà Dân chủ Đức, dạy Đức văn và lịch sử trong một trường trung học ở thành phố Dresden. Năm 1953, ông kí hợp đồng làm việt cho cơ quan mật vụ Stasi.[56] Nhiệm vụ của ông là báo cáo về “những phần tử tiêu biểu trong giới trí thức”, nghĩa là về những đồng nghiệp và học trò của mình, cũng như về bạn bè cũ trong đội quân Lê Dương. Tôi đã được đọc những bản báo cáo này và có thể kết luận Schröder không hề tố cáo ai cả. Ngược lại, trên những trang viết ấy, ông từng bước phê phán chế độ và biểu lộ sự nôn nóng, tuyệt vọng của mình về hoàn cảnh cuộc sống. Vào cuối thập niên 1950, ông bị “khó khăn chính trị” và mất việc. Sau đó ông làm thợ tiện trong nhà máy; cuối năm 1959 cùng với người vợ trẻ, trốn sang Tây Đức. Hi vọng làm báo không thành, cuối cùng Schröder phải nhận một chỗ dạy Pháp văn tại một trường tư ở Frankfurt trên sông Main với đồng lương bạc bẽo. Tháng giêng 1977, ông chết trong cô đơn, tuyệt vọng, nhưng đến giờ phút cuối cùng, Schröder vẫn tiếp tục viết.
Tình cảnh của Frey, Borchers và Schröder minh hoạ thảm kịch cùng cực của con người sống giữa hai trận tuyến, Zwischenfrontmensch. Năm 1945, Việt Minh nồng nhiệt nhận đón Frey và các bạn ông. Với sở trường về tuyên truyền, tổ chức, hiểu biết kĩ thuật và quân sự về mặt lí thuyết cũng như trong thực hành, họ đã giúp ích cho Việt Minh. Song, sau thắng lợi của chiến dịch biên giới đông bắc năm 1950, tình hình thay đổi hoàn toàn với sự có mặt đông đảo của các cố vấn Trung Quốc, từ đó bắt đầu một quá trình “cải tạo cộng sản chủ nghĩa” trong một phong trào cho đến lúc ấy vẫn mang sắc thái của một mặt trận nhân dân. Từ nay, cố vấn Trung Quốc mới là đồng chí cách mạng quốc tế chủ nghĩa, còn hàng binh Âu châu là người ngoại quốc, người ngoài, là những kẻ đào tẩu từ hàng ngũ quân địch. Cuối cùng, cái gọi là mối mâu thuần “hiện sinh” giữa những người dân thuộc địa và những người da trắng khiến cho người ta không thể tín nhiệm người Âu[57] bởi vì họ sống “không hài hoà” với quê hương hay với bản sắc của họ; trong con mắt Việt Nam, họ sẽ không bao giờ vượt qua được mâu thuẫn cơ bản đó, đơn giản vì họ không phải là người Việt! Không những thế, họ là những người có đầu óc phê phán, không bao giờ chịu ngoan ngoãn thi hành chỉ thị của Đảng mà không thảo luận, phản biện. Trong cuộc gặp ở Ban chấp hành Trung ương ngày 15 tháng tám 1950, anh Thận (tức là Trường Chinh) đánh giá họ là “thiếu bồi dưỡng về mặt tư tưởng, và có biểu hiện... chủ nghĩa sô-vanh”. Schröder coi câu nói đó là một lời Hinauswurf, cho “về chơi xơi nước”.[58] Phải nói là ở thời điểm ấy, nhiệt tình cách mạng của mùa thu 1945 nhờ đó họ gắn bó khắng khít với nhau trong mấy năm trời nay đã nguội lạnh. Cuối năm 1950, Frey, Schröder, Borchers, Wächter và Ullrich ăn mừng Lễ giáng sinh với nhau, và chính những ngày sống chung này đã “rọi sáng những mối quan hệ giả tạo, thậm chí dối trá” giữa họ với nhau, và cho thấy rõ “sự nối kết tạm bợ giữa họ với nhau không xuất phát từ mục đích chung và hoạt động chung, mà chỉ vì họ cùng chống đối”.[59] Chính vì thế mà từ năm 1954 trở về sau, chỉ vài ba người Âu còn ở lại Việt Nam...
Nói theo hình tượng của Adorno, Frey Schröder và Borchers xuất thân từ “cuộc đời thương tổn”. Họ là những con người bị bầm giập, mang đầy thương tích, bị bứt khỏi những ước vọng gia đình, sự nghiệp, dân tộc, bị ném vào một thế giới thù nghịch và phi lí. Trong cơ ngũ Lê Dương, cái không khí “đại đồng”, những “tận tâm, tình đồng đội, cảm giác mạnh mẽ”[60] chỉ có trong những tờ rơi tuyên truyền tuyển mộ, và hoàn toàn vắng bóng trong thực tế hàng ngày làm bằng sự tuân phục, bạo hành và đơn điệu – vả lại, họ là những người lính ở ngoài mọi khuôn mẫu. Cách mạng Việt Minh hiện ra trong mắt những con người đang thèm khát hành động vì chính nghĩa ấy như một dự phóng về tiến bộ thuận chiều lịch sử, đồng thời hứa hẹn mang lại cho họ một quê hương, tổ quốc. Họ sẵn sàng thuần phục cá tính vì giấc mơ kiến tạo một xã hội nhân bản hơn, để rồi cuối cùng phát hiện ra rằng họ lại sa vào cạm bẫy cực quyền đòi hỏi họ hiến dâng tất cả mà không mảy may khoan thứ những dị biệt cá nhân. Trong nhật kí tháng hai 1951, Schröder chua chát ghi lại: “Giả sử bây giờ ông già râu phán một câu: ‘Cái giẻ trắng mà các chú thấy kia màu đen’, mọi người sẽ tin là thế; cán bộ sẽ coi đó là kinh thánh. Chuyện ấy đã tững xảy ra đâu đó rồi. Goebbels còn xạo gấp mấy, nhưng người dân Đức có lẽ vì thích tự thôi miên tập thể, đã tin lời Goebbels. Ở đây, người ta còn đi xa hơn nữa: họ tự thuyết phục và xác quyết là từ trước đến nay họ vẫn tin rằng cái giẻ trắng kia màu đen. Điều đó, người Đức làm không nổi. Bởi vì họ ý thức được rằng trước thời quốc xã, mọi sự không như H(itler) và G(oebbel nói”. Tự do mà họ ước mong hiện nguyên hình độc tài. Không những thế, họ đã hăng hái góp phần vào đó. Ở đây, tôi không thể đi sâu để bàn về những động cơ đã thúc đẩy họ, các hoạt động của họ, và cũng không thể tìm hiểu họ ý thức tới mức nào về những hậu quả sự chọn lựa lúc đó của họ. “Tôi đã sống hoà điệu với chính tôi”, nhiều năm sau, một người trong họ đã viết như vậy.[61]
Thay mặt mọi người, và vẫn giữ quyền tự do của mình để tố cáo chế độ độc tài, song họ vẫn ở “giữa hai trận tuyến”. Schröder, Frey và Borchers là những người tranh đấu và những trí thức. Tranh đấu và chiến đấu ngoài mặt trận không phải do tạng người hay tâm tính, mà là do hoàn cảnh lịch sử đưa đẩy. Dẫu sao, hành trình của họ cũng phù hợp với truyền thống nho sĩ / tráng sĩ Việt Nam mà tiêu biểu là Nguyễn Trãi (1380-1442), bên trung bên hiếu, đã chọn chữ trung. Và họ cũng không khác các đồng chí Việt Nam của họ đã tạm thời phải biến thành những quán quân của một thứ chủ thuyết “thiên niên kỉ” (millénarisme) mác xít đi trước cả Frantz Fanon. Qua trải nghiệm thực tiễn, họ phân tích nghĩa quốc gia (xã hội) và từ đó dấn thân vào cuộc đấu tranh chống thực dân. Tới khi nhận diện Nhà nước toàn trị là nguồn gốc của mọi sự đàn áp, thì ngay từ năm 1950, họ mất hết ảo tưởng về chủ nghĩa xã hội của Bắc Việt Nam. Nguyễn Đình Thi, nguyên tổng thư kí Hội Văn hoá cứu quốc (thập niên 1940), ít lâu trước khi từ trần, đã phát biểu như sau : Schröder và Boudarel “gặp vấn đề khi họ phải chấp nhận tôn ti trật tự của Đảng”.[62]...
Paris, 24 décembre 2003
Heinz Schütte
138 rue La Fayette
75010
Paris
tél/fax: 01.42.09.44.75
e-mail: heinzschutte@hotmail.com
(Source: Nguyễn Ngọc Giao biên dịch từ nguyên tác tiếng Pháp)
[23] Reinhold Schneider, Verhüllter Tag, Köln 1962, tr. 164 [24] Bà mẹ của Erwin Borchers cũng bị ông cụ thân sinh truất quyền thừa kế vì đã lấy một “tên Phổ bẩn thỉu” (Saupreuße). Thông báo miệng của Lilo Ludwig, em gái Borchers, Berlin 28 tháng sáu 2003. [25] Lebenslauf. Berlin 14 mai 1966, trong : B St U : MfS AP 14061/73, trang 000008 [26] S. P. 554, 6 tháng bảy 1940; trong: Fonds Philippe Delaunay (FPD) [27] R. Schröder gửi Hilde Schröder, 23 tháng chín 1940, Bel-Abbès 16 tháng hai 1941 và Bel-Abbès 27 tháng hai 1941 [28] Michels, sđd, tr. 136 [29] Raymond Aron, Lời tựa, trong: André Thérive, Essai sur les Trahisons, Calman-Lévy, Paris 1951, tr. XIV [30] Thư Schröder gửi vợ, 1 tháng tám 1941, trong : FPD [31] Jean Lacouture, Hô Chi Minh. Seuil, Paris 1967, tr. 115 [32] Bản thảo đánh máy của Schröder 260 trang không tựa đề (MS), FMS, tr. 58 [33] MS, p. 174 [34] Lax-Giroud, Les Oubliés d’Annam, édition intégrale, Aire Libre, Dupuis (1990 et 1991) 2000, tr. 54-55 [35] Ernst Frey, Vietnam mon amour. Ein Wiener Jude im Dienst von Hô Chi Minh, nhà xuất bản Doris Sottopietra, Vienne 22002, tr. 64 et 94. Frey muốn theo học hoá học kĩ thuật [36] như trên., tr. 118/119, 121, 170 [37] Ferry Stern, Und ist es auch Wahnsinn, tr. 655. – Đây nguyên thuỷ là bản thảo 1216 tranh đánh máy của Frey, được FS biên tập và xuất bản.. [38] Stern, sđd., tr. 692-726 [39] Borchers, Lebenslauf, tr. 000010/11 [40] Stern, sđd., tr. 704 [41] Schröder, MS, tr. 113 [42] như trên, tr. 117 [43] Stern, sđd, tr. 793 [44] Schröder, MS, tr. 58 [45] Gérard Tongas, J’ai vécu dans l’enfer communiste au Nord Viêt-Nam. Les nouvelles éditions Debresse, Paris 1960, tr. 173 [46] Arkady Fiedler, Im Lande der wilden Bananen, VEB F.A. Brockhaus Verlag, Leipzig 1959, tr. 170 [47] Margret Boveri, Verrat im 2o. Jahrhundert, I – Für und gegen die Nation, Rowohlt, Hamburg 1956, tr.111 [48] Frey, sđd., tr. 206 [49] Jacques Doyon, Les Soldats Blancs de Hô Chi Minh, Fayard, Paris 1973 [50] Frey, sđd., tr. 206; Schröder, MS, tr. 60 [51] B St U : MfS FV 2/71, tr. 000011 [52] Pierre Sergent, Un Étrange Monsieur Frey, Fayard, Paris 1982, tr. 305, 309 [53] FMS [54] Hỏi chuyện Trần Duy, Hà Nội, ngày 18 tháng mười 2002 [55] Lebenslauf, tr. 000062. – Trong các hồ sơ của Stasi, có nhiều lính Lê Dương cũ tố cáo Schröder… Trong một cuốn sổ nhật kí nhỏ tí, S ghi trong khi thi hành kỉ luật, biệt đội ‘T’ không có biểu hiện hoảng loạn , và hôm sau : Từ 7g đến 4g chiều, viết ‘tự bạch’ và thư gửi TW , 11 và 12 tháng sáu 1949. [56] B St U: Ddn. AIM 808/59 – Personalakte [57] Hỏi chuyện Hữu Ngọc, Hà Nội, ngày 18 tháng năm 1999. [58] Nhật kí Schröder ngày 18 tháng tám 1950 [59] Thư của NEX (Borchers) gửi Kerkhof, 28 tháng hai 1951, FMS [60] Boveri, I, sđd., tr. 35 [61] Rudolf Schröder, In partibus infidelium, bản thảo, tr. 15, FMS [62] Hỏi chuyện Nguyễn Đình Thi, Hà Nội, ngày 21 tháng mười 2002. © Thời Đại Mới (Xem kỳ trước)
Xem online : Cùng chủ đề
[1] L’Être et le Néant, tác phẩm triết học của Jean-Paul Sartre (công bố năm 1943). Theo Heinz Schütte thì một thành viên của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau (mùa hè 1946), bạn của Rudy Schröder, đã mang về Hà Nội cho ông một bản (chú thích của N.D.)