Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Công nghệ > Chuyển đổi số > CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ

CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ

Thứ Hai 19, Tháng Mười Hai 2016, bởi Cong_Chi_Nguyen

  • Tiếng Anh: e-Government, e-Gov.
  • Đồng nghĩa/Tương đương: Chính phủ trực tuyến, Chính phủ số hóa
  • Từ khóa: cải cách hành chính; một cửa liên thông; thương mại điện tử; cổng thông tin; dịch vụ công; tin học hóa; mạng thông tin; giao dịch trực tuyến

Giới thiệu

Chính phủ điện tử (CPĐT) được hiểu là một chính phủ đổi mới trên cơ sở ứng dụng CNTT-TT và cải cách hành chính, hoạt động có công hiệu, minh bạch, hiệu quả và cung cấp các dịch vụ công tốt hơn, tạo điều kiện hơn cho công dân thực hiện quyền dân chủ và tham gia quản lý nhà nước. Hiểu rộng hơn, CPĐT không chỉ là việc trang bị máy tính và mạng thông tin, mà gồm cả việc đổi mới toàn diện quan hệ giao dịch trong nội bộ chính phủ, cũng như giữa các cơ quan chính phủ với công dân và doanh nghiệp. Việc tiết kiệm và tối ưu hóa các nguồn lực, tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ và phương thức hoạt động, bắt đầu bằng sự thay đổi nhận thức và quan niệm về nội dung hoạt động của mọi cơ quan các cấp chính quyền.

Nguồn gốc khái niệm CPĐT đã hình thành dựa vào thực tiễn của giao dịch trực tuyến trong thương mại điện tử (TMĐT) mà một ví dụ đầu tiên là hệ thống đặt hàng qua các thiết bị Minitel được hãng France Telecom triển khai trên toàn nước Pháp từ 1982. Hồi đó các nền tảng CNTT-TT còn vận hành theo những tiêu chuẩn kỹ thuật và giao thức kết nối mạng nhiều khi không tương thích giữa các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Sang thập niên 1990, trang web xuất hiện rồi mạng Internet bao phủ toàn cầu, việc sử dụng phần mềm cùng các thiết bị liên quan được phổ biến nhờ bộ giao thức TCP/IP có từ thập niên 1980.

CPĐT phiên bản 1.0 thậm chí đã thành công trong một số dự án tiên phong trước khi thế kỷ XX kết thúc, với những chi phí đi kèm được giảm đáng kể, trong đó các nỗ lực về tiêu chuẩn hóa quốc tế đã đóng góp một phần to lớn. Tuy nhiên, quá trình triển khai CPĐT còn phải phụ thuộc vào những điều kiện tài chính và đặc biệt bị chi phối mạnh bởi nhận thức hoặc năng lực của chính quyền, công dân và doanh nghiệp sở tại. Vì vậy thời điểm hình thành cũng như tốc độ phát triển CPĐT của từng quốc gia và lãnh thổ nhìn chung là khác nhau.

Thuật ngữ CPĐT dường như xuất hiện lần đầu trong tập báo cáo National Performance Review (Đánh giá Hiệu năng Quốc gia) của Mỹ năm 1993. Từ “Government” (Chính phủ) trong cụm từ CPĐT vốn được hiểu theo nghĩa thông thường như một cơ quan hành pháp về quản lý công quyền. Đến năm 2014, Public Governance Committee (Ủy ban Thống quản Công quyền) vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ Digital Government để phân biệt với e-Government khi công bố khuyến nghị các sách lược "Recommendation of the Council on Digital Government Strategies 2014" của OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế).

Theo cách hiểu của OECD, Public Governance (Thống quản điện tử) có thể được định nghĩa là việc sử dụng CNTT-TT như công cụ với hàm ý thu về một mối để đạt được sự quản lý nhà nước tốt hơn. Trong khi khái niệm CPĐT vốn được hiểu là tập trung vào các hoạt động của chính phủ, khái niệm “Thống quản điện tử” mở rộng phạm vi bằng bao gồm sự cam kết và tham gia của công dân và doanh nghiệp vào quản lý công quyền theo các chuẩn mực thống nhất.

Định nghĩa phạm vi và nội dung hoạt động của CPĐT bởi các tổ chức liên quan lại có những chỗ hơi khác nhau tuỳ theo bối cảnh, tuy về bản chất đều là dựa trên ứng dụng CNTT và Truyền thông. Ví dụ:

  1. Liên Hiệp quốc (UN) năm 2006 coi CPĐT là “việc sử dụng Internet và mạng web toàn cầu để cung cấp thông tin và các dịch vụ của chính phủ tới công dân”.
  2. Ngân hàng Thế giới (World Bank): “CPĐT là việc các cơ quan chính phủ sử dụng một cách có hệ thống CNTT-TT để thực hiện quan hệ với công dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, nhờ đó cải thiện, nâng cao chất lượng các giao dịch. Lợi ích thu được sẽ là giảm thiểu tham nhũng, tăng cường tính công khai, sự tiện lợi, góp phần vào sự tăng trưởng và giảm chi phí”.
  3. Tổ chức Đối thoại Kinh doanh Toàn cầu về TMĐT (Global Business Dialogue on e-commerc): “CPĐT đề cập đến một trạng thái trong đó các cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp (bao gồm cả chính quyền trung ương và chính quyền địa phương) số hóa các hoạt động bên trong và bên ngoài của họ và sử dụng các hệ thống được nối mạng hiệu quả để có được chất lượng tốt hơn trong việc cung cấp các dịch vụ công”.
  4. Công ty Nghiên cứu và Tư vấn Gartner coi CPĐT là “sự tối ưu hóa liên tục của việc cung cấp dịch vụ, sự tham gia bầu cử và quản lý bằng cách thay đổi các quan hệ bên trong và bên ngoài thông qua công nghệ, Internet và các phương tiện mới”.
  5. Sách “Thuật ngữ hành chính” do Viện nghiên cứu hành chính, Học viện Hành chính Quốc gia xuất bản coi CPĐT là thuật ngữ chỉ “Sự hoạt động liên thông của cả hệ thống các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước có ứng dụng một cách có hiệu quả những thành tựu của khoa học, CNTT, điện tử để bảo đảm việc chấp hành và điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và cung ứng đầy đủ, khẩn trương các thông tin cho tất cả mọi tổ chức, cá nhân thông qua các phương tiện thông tin điện tử”.

Mục tiêu chung của CPĐT là rút ngắn khoảng cách và cải tiến các tương tác giữa ba chủ thể chính gồm chính phủ, công dân và doanh nghiệp để chính phủ hoạt động hiệu quả hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công chúng thực hiện quyền dân chủ và tham gia quản lý nhà nước. Chi tiết hơn, đó là tăng cường năng lực, nâng cao hiệu quả điều hành quản lý nhà nước của chính phủ, mang lại thuận lợi cho công dân và doanh nghiệp tham gia, tăng cường sự công khai minh bạch, đồng thời giảm chi phí trong hoạt động và tổ chức của các cơ quan chính phủ.

Lợi ích của CPĐT là đáp ứng mọi nhu cầu của công dân bằng việc nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương. CPĐT đem lại sự thuận tiện, cung cấp các dịch vụ một cách hiệu quả và kịp thời cho công dân, doanh nghiệp, các cơ quan và nhân viên chính phủ. Đối với công dân và doanh nghiệp, CPĐT là sự đơn giản hóa các thủ tục và tăng tính hiệu quả của quá trình xử lý công việc. Đối với chính phủ, đó là sự hỗ trợ và cải thiện quan hệ giữa các cơ quan của chính quyền nhằm đảm bảo đưa ra các quyết định một cách chính xác, kịp thời.

Lưu ý: việc tin học hóa hành chính cũng có thể đem lại nhiều khó khăn. Trước hết là phải tăng chi phí bảo vệ sự riêng tư và tính mật của dữ liệu, chống tấn công, xâm nhập, thay đổi, ăn cắp dữ liệu từ bên ngoài hoặc bên trong. Đôi khi cần phải có một cơ quan hoạt động độc lập, khách quan để giám sát, bảo đảm sự quản lý thông tin cá nhân không bị nhà nước lạm dụng trái hiến pháp và bảo vệ công dân cũng như cung cấp thông tin liên quan cho công dân.

Khó khăn nữa là các chức năng của hệ thống tin học hóa phải được cập nhật và nâng cấp liên tục để thích ứng với các công nghệ mới. Các hệ thống sử dụng máy tính cũng có thể không tương thích với nhau, hoặc không tương thích với hệ điều hành, hoặc không thể hoạt động mà không cần liên kết hay phụ thuộc vào những thiết bị khác. Đối với công dân, việc tập hợp và lưu trữ những thông tin cá nhân của họ có thể đưa đến việc bị kiểm soát đời sống riêng tư, bị các cơ quan nhà nước lạm dụng; chưa kể đến việc thông tin cá nhân có thể bị thay đổi, lấy cắp, lưu truyền trái phép hoặc bị dùng cho mục đích thương mại. Công dân có thể không có phương tiện hay cơ sở pháp lý để biết (và để xin xóa) những thông tin cá nhân nào của mình đang bị lưu trữ cũng như để giám sát mức độ chính xác của thông tin, v.v..

Tương tác: trong guồng vận hành của CPĐT có 4 chủ thể tham gia trực tiếp vào các tương tác với chính phủ, gồm: các cơ quan chính phủ, nhân viên công vụ (công chức), công dân và doanh nghiệp. Trên cơ sở quan hệ giữa chính phủ với các chủ thể trên, có thể phân biệt các giao dịch ra thành 4 loại, tương ứng với 4 dạng tương tác như sau:

  • G2C (Government to Citizens): Là khả năng giao dịch và cung cấp dịch vụ của chính phủ trực tiếp cho công dân, vd. các dịch vụ thông tin, môi trường, giáo dục, y tế, văn hóa công cộng, thăm dò dư luận, tổ chức bầu cử, quản lý đô thị, tư vấn, khiếu nại, giám sát, đăng ký và nộp thuế, thanh toán hoá đơn đối với người sử dụng dịch vụ công có phí v.v.
  • G2B (Government to Business): Các dịch vụ và quan hệ chính phủ đối với các doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ. Đây là mối quan hệ cơ bản trong mô hình coi nhà nước là chủ thể quản lý vĩ mô nền kinh tế, xã hội thông qua chính sách, cơ chế và luật pháp; coi doanh nghiệp như là khách thể đại diện cho lực lượng sản xuất trực tiếp.
  • G2E (Government to Employees): Các dịch vụ, giao dịch trong mối quan hệ giữa chính phủ đối với công chức, nhân viên; vd. dịch vụ bảo hiểm, nhà ở, việc làm, trợ cấp thất nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, v.v…
  • G2G (Government to Government): Là khả năng phối hợp, chuyển giao và cung cấp các dịch vụ một cách hiệu quả giữa các cấp, ngành, tổ chức, bộ máy nhà nước trong điều hành và quản lý nhà nước, trong đó chính bản thân bộ máy của chính phủ đóng vai trò vừa là chủ thể vừa là khách thể.

Quá trình triển khai CPĐT theo mô hình do Liên Hiệp Quốc và công ty tư vấn Gartner khuyến cáo được chia ra thành bốn giai đoạn:

  • 1- Thông tin: gồm 2 giai đoạn nhỏ “Khởi đầu” và “Tăng cường”. Giai đoạn “Khởi đầu” là sự hiện diện của chính phủ trên trang web và cung cấp công khai các thông tin thích hợp để công chúng có thể tiếp cận được. Giai đoạn “Tăng cường” là có sự hiện diện ở mọi cơ quan chính phủ để thông tin và các quy trình trở nên minh bạch hơn, với chất lượng dịch vụ nâng cao. Các cơ quan chính phủ có thể nhanh chóng trao đổi thông tin với nhau (G2G) bằng các phương tiện điện tử, Internet và mạng nội bộ.
  • 2- Tương tác: sau khi cải cách hành chính bằng cơ chế một cửa liên thông, chính phủ có thể bắt đầu các tương tác điện tử G2C, G2B. Thời gian chờ đợi giảm hẳn vì công dân và doanh nghiệp có thể trao đổi trực tiếp với công quyền, sử dụng các công cụ tra cứu và tải xuống các biểu mẫu, tài liệu. Trong quan hệ G2G, các cơ quan chính phủ sử dụng mạng cục bộ, intranet và thư điện tử để liên lạc và trao đổi dữ liệu.
  • 3- Giao dịch: Đến giai đoạn này, tính phức tạp về công nghệ tăng lên bởi vấn đề an ninh và cá thể hóa, vd. cần có chứng thực số (chữ ký điện tử) để cho phép thực hiện việc chuyển giao hợp pháp các dịch vụ. Tuy nhiên giá trị và lợi ích của khách hàng (trong G2C và G2B) cũng tăng theo. Các giao dịch hoàn chỉnh có thể thực hiện mà không cần đi đến cơ quan hành chính. Giai đoạn 3 sẽ khá phức tạp cả về giao dịch với doanh nghiệp khi CPĐT bắt đầu với các ứng dụng hoạt động trực tuyến. Ở đây, các quy trình nội bộ (G2G) phải được thiết kế lại để cung cấp dịch vụ được tốt. CPĐT cần những điều luật và quy chế mới để cho phép thực hiện các giao dịch không sử dụng tài liệu bằng giấy.
  • 4- Tích hợp: sau khi mọi hệ thống thông tin được tích hợp lại, công dân và doanh nghiệp có thể hưởng thụ các dịch vụ G2C và G2B mà chỉ qua một “điểm giao dịch ảo”. Ở giai đoạn này, sự tiết kiệm chi phí, tăng hiệu quả và đáp ứng nhu cầu khách hàng đạt được các mức cao nhất có thể có.

Hãng IBM đề xuất một mô hình phát triển CPĐT khác, tuy cũng có bốn giai đoạn: 1. tự động hoá, 2. cải tiến, 3. tích hợp quy trình, 4. đáp ứng nhu cầu. Các giai đoạn và các dịch vụ đi kèm như vậy không phải là bất biến. Khi thực hiện chuyển đổi sang giai đoạn mới của CPĐT, việc tái cấu trúc thường gặp rào cản và có thể phải chịu thất bại ít nhiều. Đổi lại là các hoạt động với hiệu quả cao hơn của chính phủ và sự hài lòng lớn hơn của xã hội. Thực tiễn sẽ quyết định việc lựa chọn dịch vụ nào và thời điểm nào cần cung cấp nó là hợp lý nhất.

Trong CPĐT, tất cả hoạt động đều dựa trên nền tảng CNTT-TT với quy mô khác nhau từ mạng cục bộ đến mạng diện rộng các loại (intranet và Internet). Ví dụ:

  1. Thư điện tử (e-mail) giúp tiết kiệm được chi phí và thời gian. Ngoài gửi thư, dịch vụ e-mail có thể gửi các bản ghi nhớ, thông báo, báo cáo, bản tin... ở dạng file đính kèm. Chỉ cần có một hệ thống e-mail tin cậy và cấp một địa chỉ cho mỗi người tham gia.
  2. Mua sắm công điện tử (e-Procurement). Trừ khâu giao hàng, các công đoạn từ đấu thầu đến thanh toán đều có thể thực hiện qua mạng. Việc tập trung mua sắm công đảm bảo tiết kiệm được thời gian, chi phí và giúp chống tiêu cực.
  3. Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange - EDI) là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu trúc” từ máy tính này sang máy tính khác trong nội bộ cơ quan hay giữa các cơ quan theo bộ giao thức EDI có tính bảo mật cao và đã được tiêu chuẩn hóa trên thế giới.
  4. Tra cứu, cập nhật thông tin. Chính phủ có thể cung cấp qua mạng tới tất cả công dân và doanh nghiệp những loại thông tin được cập nhật về kinh tế, xã hội, về chủ trương chính sách và hướng dẫn các thủ tục hành chính.

Dịch vụ hành chính công là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu thu lợi, do cơ quan nhà nước hoặc tổ chức, doanh nghiệp được ủy quyền, có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý. CPĐT có thể cung cấp các dịch vụ này dưới dạng trực tuyến tại cổng thông tin của mình được kết nối qua mạng Internet. CPĐT còn có thể sử dụng Internet và hệ thông tin địa lý (GIS) để cung cấp những dịch vụ mới mà công chức cũng như công dân và doanh nghiệp quan tâm; ví dụ: quản lý đất đai, cấp phép xây dựng; thông tin quy hoạch; trao đổi thông tin giữa cơ quan công quyền các cấp trong phục vụ quản lý tài nguyên, môi trường, v.v…

Dịch vụ trực tuyến phổ biến nhất là: Cung cấp thông tin văn bản quy phạm pháp luật, chủ trương chính sách; cung cấp thông tin kinh tế, xã hội và thị trường; đăng ký, cấp phép xuất nhập khẩu; đăng ký thuế các loại, khai báo nộp thuế; đăng ký kinh doanh, biểu quyết qua mạng, gia hạn/cấp mới giấy phép, thị thực, hộ chiếu, v.v… Công dân sẽ rất ít khi phải đến các trụ sở công quyền như trước đây nếu có thể kết nối đến các dịch vụ trực tuyến. Tỷ lệ giữa số lượng các dịch vụ trực tuyến -so với tổng số các dịch vụ hành chính công là một trong các chỉ tiêu đo lường mức độ thành công của CPĐT.

Các tiêu chí phổ biến để đánh giá CPĐT bao gồm:

  • CPĐT phải sử dụng dễ dàng và sẵn sàng phục vụ công dân với đầy đủ hướng dẫn.
  • Đáp ứng một cách trách nhiệm, giao dịch một cửa, cho phép theo dõi xử lý vụ việc.
  • Công dân có thể truy nhập các dịch vụ chính phủ bằng nhiều cách và ở mọi nơi.
  • Vận hành an toàn, đảm bảo tính riêng tư của công dân và doanh nghiệp.
  • CPĐT phải được thiết kế, xây dựng và triển khai trên cơ sở cộng tác phối hợp giữa chính phủ và công dân, doanh nghiệp.
  • CPĐT không chỉ là làm cổng thông tin điện tử hoặc đưa các dịch vụ công lên mạng, mà còn phải cải tiến quy trình công tác và tổ chức lại bộ máy (tái cấu trúc hệ thống).
  • CPĐT phải chi tiêu hợp lý và minh bạch, giảm được chi phí hoạt động.
  • Cho phép công dân và doanh nghiệp cộng tác tham gia quản lý hành chính nhà nước.

Xếp hạng quốc gia: Để đánh giá chung, DPAPM (Phòng Hành chính công và Quản lý Phát triển) thuộc DESA (Vụ Kinh tế Xã hội của Liên hiêp quốc) tiến hành khảo sát 2 năm một lần và lập một báo cáo về EGDI (Chỉ số Phát triển CPĐT). EGDI là bảng xếp hạng so sánh của các quốc gia trên thế giới theo ba chỉ số chính:

  • 1) Chỉ số dịch vụ trực tuyến (OSI) đo lường sự hiện diện trên trang web của chính phủ về cung cấp dịch vụ;
  • 2) Chỉ số kết cấu hạ tầng viễn thông (TII);
  • 3) Chỉ số vốn nhân lực (HCI). Khảo sát này xây dựng mô hình đo lường các dịch vụ số hóa và đánh giá mọi quốc gia thành viên của LHQ theo một chỉ số tổng hợp định lượng về sự sẵn sàng của CPĐT dựa trên 3 đánh giá thành phần về trang web, kết cấu hạ tầng viễn thông và nguồn nhân lực.

CPĐT phiên bản 2.0 (gọi tắt là Gov 2.0) cần đến sự sửa đổi chính sách của chính phủ nhằm khai thác các công nghệ cộng tác và các công cụ Internet tương tác để tạo ra một nền tảng tính toán mã nguồn mở, trong đó chính phủ, công dân và các doanh nghiệp sáng tạo để cải thiện tính minh bạch và hiệu quả. Mục tiêu cũng như triển vọng là “đưa chính phủ vào tay công dân”.

Gov 2.0 kết hợp các công nghệ Web 2.0 với CPĐT, tăng cường tương tác với sự tham gia của công dân bằng cách sử dụng nền tảng mã nguồn mở, cho phép phát triển các ứng dụng, trang web và tiện ích sáng tạo. Vai trò của chính phủ ở đó là cung cấp dữ liệu mở, các dịch vụ web và nền tảng như một kết cấu hạ tầng thông tin an toàn. Trong mô hình quan hệ G2C có một dạng giao dịch khác chỉ được bóc tách riêng khỏi khi CPĐT chuyển sang phiên bản 2.0 với sự tham gia cộng tác trực tiếp của công dân vào quản lý nhà nước. Đó là C2G (Citizen to Government), thường được hiểu như giao dịch và tương tác của công dân với các cấp chính quyền liên quan.

CPĐT tại nước ta

Chỉ thị 58-CT/TW do Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành ngày 17-10-2000 đã đưa ra tầm nhìn CPĐT. Khi đó chưa có khung pháp lý để thực hiện, trước đó ngay từ năm 1997 Văn phòng Chính phủ đã thực hiện một dự án mạng diện rộng dùng riêng nối với các Văn phòng cấp bộ, ngành và UBND cấp tỉnh, thành phố.

Ngày 25-7-2001 Thủ tướng ký Quyết định 112/2001/QĐ-TTG phê duyệt “Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005” (Đề án 112). Đề án được cấp kinh phí triển khai vào cuối năm 2002 và đã có những kết quả ban đầu. Năm 2006 một số thành viên Ban quản lý Đề án 112 bị truy tố về tội tham nhũng mấy chục triệu đồng rồi xử tù sau một phiên tòa kéo dài. Đề án bị đình chỉ mà không có hội nghị chính thức tổng kết, đánh giá những thành công và thất bại. Hàng vạn công chức vừa được đào tạo xong cũng bị dừng thực hiện giai đoạn 2 dù đã có kế hoạch. Hệ thống kế thừa của Đề án 112 được Bộ Thông tin – Truyền thông tiếp quản và tiếp tục hoạt động với kinh phí hạn hẹp từ nguồn chi thường xuyên.

Luật CNTT được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29-6-2006 và Nghị định 64/2007/NĐ-CP ngày 10-4-2007 của Chính phủ về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước rồi Quyết định 83/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng đã quy định lại hành lang cho CPĐT vận hành. Sau đó còn có Quyết định 1605/QĐ-TTg ngày 27-8-2010 của Thủ tướng về phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan Nhà nước giai đoạn 2011 – 2015.

Theo báo cáo năm 2016, chỉ số phát triển CPĐT của Việt Nam là 0,5143, cao hơn mức bình quân của thế giới và khu vực Đông Nam Á (0,4712) và xấp xỉ với giá trị bình quân của Châu Á (0,5132), đứng thứ 89 trong 193 thành viên của Liên Hiệp quốc.

TS Nguyễn Chí Công , Tổ trưởng chuyên môn
Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước