Đông Tác

Nguyễn Chí Công

Trang nhà > Khoa học > Y-Dược > BỆNH CÚM

BỆNH CÚM

Thứ Ba 10, Tháng Tư 2007

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization), mỗi mùa đông, bệnh cúm tấn công 20% dân số địa cầu, gây ra 5 triệu trường hợp bệnh nặng, và ít nhất từ 250.000 đến 500.000 cái chết.

Sơ lược về cúm

Bệnh cúm gây bởi siêu vi cúm (Influenza virus), thường vào mùa đông mỗi năm, từ tháng 11 tới khoảng tháng 3. Còn bệnh cảm (cold) thì xảy ra quanh năm, do những siêu vi hiền hơn siêu vi cúm.

Cúm là bệnh rất nguy hiểm. Thí dụ ở Mỹ, những năm gần đây, tuy không có dịch lớn, tính trung bình, cúm vẫn khiến 226.000 trường hợp bệnh phải vào nhà thương, giết hại 36.000 người mỗi mùa đông. 80-90% những người chết vì cúm ở khoảng tuổi trên 65. Thứ đến, những người mang các bệnh kinh niên. Bây giờ, người ta lại thấy cả trẻ em trong khoảng tuổi 6 đến 23 tháng cũng hay có biến chứng nguy hiểm khi nhiễm cúm. Mức độ tấn công của cúm có thể lên đến 20-30% (cứ 10 người, 2-3 người bị cúm), làm xáo trộn hoạt động nhiều giới: trẻ em nghỉ học, người lớn nghỉ việc. Các em nhiễm cúm nhiều hơn chúng ta.

Siêu vi cúm có đặc tính thay hình đổi dạng, mỗi năm mỗi khác, nên việc phòng ngừa cúm cần được thực hiện hàng năm. Thuốc chích ngừa cúm mỗi năm một khác, với hy vọng có thể ngừa được dịch cúm tiên đoán sắp xảy ra trong mùa đông năm đó.

Siêu vi cúm có trong nước mũi, nước miếng người bệnh. Bệnh truyền từ người bị cúm sang người lành khi những hạt nước nhỏ li ti chứa siêu vi cúm, bắn ra từ mũi, miệng người bệnh lúc họ ho, hắt hơi. Bắt tay, ôm nhau cũng có thể truyền bệnh (tay bạn dính nước mũi, nước miếng người bệnh, rồi bạn vô tình đưa tay lên mũi, miệng mình, thế là xong!). Trong nhà có người nhiễm cúm, bạn khó tránh lây bệnh.

Cúm nặng hơn cảm nhiều, gây nhức đầu, nóng sốt (thường trên 38.3 độ C hay 101 độ F), ớn lạnh, yếu mệt, khó chịu trong người, nhức mỏi các bắp thịt. Đi kèm là các triệu chứng hô hấp: sổ mũi, đau cổ họng, ho khan, đau tức vùng giữa ngực. Những trường hợp cúm nặng có thể làm người bệnh mê sảng. Nóng sốt cao nhất trong vòng 24 tiếng đầu (có thể lên đến 41 độ C), sau đó giảm dần 2-3 ngày sau. Thỉnh thoảng, cũng có những trường hợp sốt kéo dài cả tuần. Nhức đầu thường dữ dội, làm người bệnh khó chịu nhất. Các bắp thịt toàn cơ thể nhức mỏi như dần, nhất là ở vùng lưng dưới và chân. Có người đau nhức cả các khớp xương. Các cháu bé còn hay buồn nôn, ói mửa, đau tai do viêm tai giữa (otitis media).

Nếu không có biến chứng, các triệu chứng nhẹ đi trong vòng 3 đến 7 ngày, nhưng thời gian hồi phục để có thể trở lại làm việc như trước thường chậm hơn khi bị cảm, mất nhiều ngày hay nhiều tuần, nhất là người lớn tuổi. Ho do cúm kéo dài đến trên 2 tuần. Người lớn cúm, dễ lây cho người khác trong vòng 5-6 ngày đầu, trẻ em cúm, hơn 10 ngày sau, vẫn còn có thể lây bệnh.

Cúm không nguy hiểm vì các triệu chứng, song vì các biến chứng (complications) của nó. Biến chứng thường xảy ra nhất của cúm là sưng phổi. Siêu vi trùng cúm, dữ hơn các siêu vi trùng cảm, làm tổn thương niêm mạc (mucosa) lót lòng các ống phổi. Sưng phổi do chính siêu vi trùng cúm gây ra, hoặc do các vi trùng (bacteria) luôn có sẵn trong đường hô hấp. Các vi trùng này thường ngày không sao, nay nước đục thả câu, bám vào những chỗ niêm mạc bị siêu vi cúm làm tổn thương, tấn công luôn, gây sưng phổi. Biến chứng sưng phổi hay xẩy ra ở các vị lớn tuổi, hoặc người có bệnh tim, bệnh phổi kinh niên.

Biến chứng nguy hiểm khác của cúm là hội chứng Reye (Reye syndrome) ở trẻ em. Hội chứng Reye hay xảy ra nhất trong khoảng tuổi 2 đến 16, vài ngày sau khi nhiễm cúm. Khi các triệu chứng của cúm có vẻ như đang bớt dần, trẻ đột nhiên buồn nôn, ói mửa. Sau đó khoảng 1-2 ngày, trẻ lờ đờ, mê sảng, giật kinh phong (seizure), rồi đi dần vào mê sảng và có thể chết. Trước kia, khi người ta chưa biết nhiều về hội chứng Reye, tử vong lên đến hơn 40% (10 trẻ bị hội chứng Reye, hơn 4 trẻ chết). Nay, dù với sự định bệnh mau chóng và các cách chữa trị thích ứng, tử vong vẫn còn khoảng 10% (10 trẻ bị, 1 trẻ chết). Cơ chế gây hội chứng Reye ở trẻ em nhiễm cúm hiện chưa được hiểu rõ. Tuy nhiên, người ta nhận thấy các trẻ nhiễm cúm, nếu dùng Aspirin, sẽ dễ bị hội chứng Reye hơn các trẻ không dùng Aspirin. Con số trẻ em bị hội chứng Reye nay đã giảm đi nhiều, kể từ khi các bậc phụ huynh được báo động, không còn dùng Aspirin cho các trẻ em bị cảm hay cúm.

Các biến chứng khác của cúm: viêm bắp thịt, viêm cơ tim, viêm óc, viêm tủy sống, ... Ngoài ra, ở những người đang có bệnh tim, phổi hay thận kinh niên, cúm cũng có thể làm các cơ quan này, vốn đã yếu sẵn, thành suy yếu hơn, đe dọa tánh mạng người bệnh.

Ngừa cúm

Phương pháp trị cúm hữu hiệu nhất vẫn là ngừa cúm. Với bệnh cúm, quả “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Vào năm 2010, một trong những chỉ tiêu nền y tế Mỹ muốn đạt tới, là hàng năm sẽ chích ngừa cúm được cho 90% những vị từ 65 tuổi trở lên.

Ba năm nay, ngoài thuốc chích để ngừa như hàng năm, còn có thêm thuốc ngừa Flumist, xịt vào mũi. Tiếc thay, Flumist hiện chỉ dùng được cho người khỏe trong khoảng 5 đến 49 tuổi.

Thuốc chích ngừa cúm chế từ các siêu vi cúm A và B đã gây bệnh trong mùa cúm năm trước, cấy vào trứng, cho sinh sôi nảy nở, sau đó bị giết đi để không thể gây bệnh, nhưng vẫn có khả năng tạo kháng thể cho người được chích. Sau khi chích ngừa, dù sự bảo vệ không 100%, ít ra cũng 50-80%. Rủi vẫn bị cúm, triệu chứng thường nhẹ hơn, ít nóng sốt, ít sưng phổi.

Thuốc chích và cả thuốc xịt Flumist đều dùng trứng làm chất đệm, nên những người ăn trứng có phản ứng (egg allergy: nổi mẩn đỏ, lên cơn suyễn, chóng mạët, xỉu, ...), không nên chích ngừa hoặc dùng Flumist.

Những ai cần chích ngừa cúm ?

Cơ quan Y tế khuyến nghị chích ngừa cúm cho các trẻ em từ 6 tháng trở lên (dưới 6 tháng không chích ngừa được) và những người lớn bị nguy hiểm nếu nhiễm cúm, do cao tuổi hoặc vì đang mang bệnh làm cơ thể yếu sẵn:
- Người lớn từ 50 tuổi trở lên, dù không có bệnh gì quan trọng.
- Trẻ em trong khoảng tuổi 6-23 tháng.
- Phụ nữ mang bầu, thai kỳ sẽ vào tháng thứ 4 trở đi khi mùa cúm đến.
- Trẻ em tuy ngoài khoảng tuổi 6-23 tháng và người lớn tuy dưới 50, tuy không mang thai, nhưng đang có các bệnh kinh niên như bệnh tim, bệnh phổi (kể cả suyễn), bệnh thận, bệnh tiểu đường, thiếu máu nặng, bệnh AIDS, v.v., hoặc người đang phải dùng những loại thuốc khiến sức kháng cự của cơ thể suy giảm (như thuốc Prednisone), thuốc chống ung thư.
- Người đang ở trong các viện chăm sóc đặc biệt (nursing homes).
- Người dưới 19 tuổi đang phải dùng Aspirin lâu dài (vì họ có thể bị hội chứng Reye nếu nhiễm cúm).
- Các bác sĩ, y tá và nhân viên y tế, có nhiệm vụ trực tiếp săn sóc những người thuộc các thành phần kể trên, cả người nhà (household contacts) nữa, cũng nên chích ngừa để tránh nhiễm cúm rồi lây lại cho người thuộc các thành phần cần được chích ngừa cúm kể trên.
- Năm nay, thêm lời khuyên mới: người mang bệnh tinh thần hoặc thể xác có thể ảnh hưởng đến chức năng hô hấp, hoặc không tự săn sóc mình được khi bị cúm (rối loạn nhận thức, chấn thương cột sống, bệnh kinh phong, bệnh thần kinh bắp thịt) cũng cần chích ngừa.

Ngoài ra, nếu thuốc chủng không thiếu hụt, tuy không thuộc các thành phần trên, nhưng sợ cúm dữ, ai trong chúng ta không bị nhạy cảm với trứng, cũng có thể chích ngừa. (Sợ chích, người khỏe mạnh trong khoảng tuổi 5 đến 49 tuổi có thể dùng thuốc xịt Flumist để ngừa.) Các vị giữ những nhiệm vụ quan trọng trong công sở, cộng đồng nên ngừa cúm, để công việc khỏi trở ngại, ảnh hưởng đến nhiều người, lỡ mình bị cúm nặng.

Chích ngừa cúm lúc nào tốt nhất ?

Khoảng 2 tuần sau khi chích ngừa, cơ thể ta bắt đầu có kháng thể (antibody) chống cúm; kháng thể tồn tại 6 tháng hay hơn. Tuy nhiên, ở một số vị có tuổi, lượng kháng thể giảm dưới mức bảo vệ sau 4 tháng. Việc chích ngừa thường được thực hiện trong khoảng các tháng 9, 10, 11. Sau đó, dù cúm đã đến, nếu còn thuốc thì vẫn nên tiếp tục chích ngừa cho đến hết mùa cúm. Thời điểm tốt nhất để chích là vào khoảng tháng 9 đến giữa tháng 10.

Thuốc ngừa cúm có gây phản ứng gì quan trọng ?

Với người ăn trứng không bị phản ứng, chích ngừa cúm ít khi gây phản ứng quan trọng, trừ hơi đau một chút thôi ở chỗ chích độ 1-2 ngày. Nếu có nóng sốt, uể oải, đau nhức các bắp thịt sau khi chích ngừa, các triệu chứng này cũng chỉ kéo dài 1-2 ngày.

Cho những vị chưa kịp chích ngừa mà cúm đã đến, hoặc vì nhạy ứng với trứng nên không thể chích ngừa, có thể dùng tạm thuốc uống Amantadine hay Rimantadine để ngừa. Điều cần biết là khác với cách ngừa bằng thuốc chích (ngừa được cả cúm A lẫn B), thuốc Amantadine hay Rimantadine chỉ giúp ngừa cúm A thôi. Amantadine có thể gây khó ngủ, chóng mặt, người bứt rứt, khó tập trung tư tưởng, sảng, có ảo giác, kinh giật, còn Rimantadine ít gây phản ứng phụ hơn. Hai thuốc mới, Tamiflu và Relenza, cũng giúp ngừa cúm (cả cúm A lẫn cúm B), song đắt hơn nhiều so với Amantadine, Rimantadine.

Song, các thuốc kể trên không nên được dùng để thay cho chích ngừa, trong những trường hợp cần và có thể chích ngừa.

Chích ngừa cúm có ngừa được cảm ?

Cảm là cảm (cold), cúm là cúm (flu), hai bệnh khác nhau và chưa có thuốc “chích ngừa cảm cúm”. Cảm xảy ra quanh năm, do những siêu vi trùng khác. Chích ngừa cúm không ngừa được cảm. Xin bạn đừng bắt đền bác sĩ nếu bạn vẫn bị cảm sau khi chích ngừa cúm. Chích ngừa cúm người cũng không ngừa được cúm gà. Trong vùng Đông Nam Á, cần hết sức cẩn thận, tránh tiếp xúc, ăn các gia cầm, kể cả món tiết canh vịt khoái khẩu.

Trụ (kháng) sinh không trị được siêu vi. Cách chữa tốt là ngừa bằng thuốc, nếu đã có thuốc ngừa. Thời điểm tốt nhất để ngừa bệnh cúm người là từ cuối tháng 9 đến giữa tháng 11, nhất là cho các vị cao niên.

BS. Nguyễn Văn Đức