Trang nhà > Xã hội > Đầu tư > "Thiên Nga Đen"
"Thiên Nga Đen"
Thứ Bảy 17, Tháng Bảy 2010
Tác giả Nassim Nicholas Taleb
Trước mùa mưa bão năm 2006 ở Mỹ, Trung tâm Dự báo Quốc gia cảnh báo một mùa mưa bão "siêu dữ dội" với từ 8 đến 10 trận lốc xoáy, nhưng thực tế chỉ có 5 trận, ngang mức trung bình của cả thể kỷ 20. Đầu năm 2006, tờ Wall Street Journal dự báo một năm ảm đạm cho thị trường chứng khoán, nhưng thực tế là trong năm đó, chỉ số Dow Jones tăng 16%. Gần đây, chính phủ Anh vừa dự báo rằng đến thế kỷ 23, biến đổi khí hậu sẽ lấy mất 13,8% GDP của toàn thế giới, vâng, 13,8% chứ không phải 13,7% hay 13,9%. Còn nếu bàn về nghiên cứu thiên văn thì năm 2004, tờ New York Times dự báo rằng vũ trụ sẽ "ra đi" êm ái trong "hàng chục tỷ năm nữa" nhưng kèm theo cảnh báo rằng dự báo này không loại trừ khả năng vũ trụ nổ tung trong vài tỷ năm tới.
Tương tự, tờ Washington Post cho rằng vũ trụ chỉ kết thúc sau 30 tỷ năm nữa và kèm theo một cảnh báo quan trọng là "Cũng không thể dự đoán số phận của vũ trụ một cách chắc chắn". Đúng vậy, làm sao chúng ta có thể dự đoán những gì sẽ xảy ra trong 30 tỷ năm tới!
Với tham vọng ngông cuồng như thế, chẳng trách nào chúng ta cứ liên tục bất ngờ vì những biến cố cứ xảy ra ngoài dự đoán. Đây cũng là chủ đề chính được bàn trong cuốn "Thiên Nga Đen" [1]. Cuốn sách bàn về sự xuất hiện của các biến cố tưởng từng như không thể xảy ra, cùng với những tác động của chúng và nhận xét của tác giả "dù không có cơ sở nhưng chúng ta vẫn cứ dự đoán tương lai như thể chúng ta rất giỏi trong việc này." Chúng ta cho rằng tất cả thiên nga đều màu trắng để rồi bị sốc khi nhìn thấy một con thiên nga đen bơi ngang qua.
Giới thiệu sách
Sinh năm 1960 tại Li-băng, Taleb đã trải qua một biến cố "thiên nga đen" khi quê hương thanh bình của ông bỗng chốc chìm trong cuộc nội chiến 1975. Sau khi di cư đến Mỹ, ông theo học trường Wharton và sau đó làm việc tại Phố Wall. Ông hiện là giáo sư giảng dạy tại Đại học Massachusetts. Ngày Thứ Hai Đen Tối năm 1987, khi Phố Wall hứng chịu đợt sụt giảm nghiêm trọng nhất trong lịch sử hiện đại mà nguyên nhân của nó lại không thể xác định được, chính là khoảnh khắc "khai sáng" của ông. Taleb nhận ra rằng yếu tố may rủi có ảnh hưởng lớn đến mức chúng ta không dám chấp nhận.
Trong cuốn sách có tựa "Phát điên vì ngẫu nhiên" [2] xuất bản năm 2001 sau thảm hoạ khủng bố ngày 11 tháng Chín, Taleb đã sử dụng kinh nghiệm của bản thân để đưa ra lập luận rằng những dự báo về thị trường chứng khoán đều vô nghĩa bởi không ai biết được giá cả sẽ đi về đâu. Ông cho rằng, sau khi giá cả bất ngờ sụt giảm, các chuyên gia sẽ lập tức công bố bản thuyết minh rất hợp lý về những gì đã xảy ra nhằm che giấu sự ngu dốt của mình. Trong "Thiên Nga Đen", Taleb khẳng định rằng yếu tố không thể lường trước không chỉ là chìa khoá để mở cánh cửa hiểu biết về thị trường tài chính mà còn về cả lịch sử.
Theo Taleb, lịch sử phát triển nhờ những "bước nhảy" - những thứ được kiểm soát bởi các yếu tố "phi thường, ngẫu nhiên, không thể nhìn thấy và không thể dự đoán". Chúng ta đã quá quen với những thay đổi chậm rãi nên hầu như không biết gì về sự thay đổi thật sự. Chả trách sao Taleb lại cho rằng các chuyên gia là những kẻ bất tài, lừa bịp, chỉ tin vào đường cong hình chuông mà theo đó, phần lớn phân phối đều hướng về trung tâm. Quan trọng hơn theo quan điểm của Taleb, những kết quả của hình học fractal thường không có cơ sở, và bất kỳ điều gì cũng có thể xảy ra sau một đêm.
"Thiên Nga Đen" có lối hành văn trịch thượng nhưng cuốn hút và chứa đựng nhiều quan sát có ý nghĩa sâu sắc như: "Chúng ta thường quy thành công của bản thân cho kỹ năng, và đổ lỗi thất bại cho những yếu tố ngoại cảnh không thể kiểm soát." Nhưng cuốn sách cũng có những hạn chế, đầu tiên là bố cục không rõ ràng, sau là nó chứa đựng nhiều thuật ngữ mới lạ do chính tác giả sáng tạo ra. Một trong những điểm chính là cuốn sách đã phân biệt được giữa Mediocristan và Extremistan. Mediocristan là thế giới của những phân phối thông thường, nơi rất hiếm gặp các yếu tố ngoại lai. Trong khi Extremistan lại hoàn toàn khác, nó là thế giới của những phân phối theo luật lũy thừa và quan trọng hơn, là môi trường của "thiên nga đen". Trong đó, một yếu tố ngoại lai có thể làm lu mờ mọi quan sát trước đó.
Cuốn sách còn giải thích lý do vì sao chúng ta lại mù tịt về "thiên nga đen". Không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng ta có xu hướng tìm kiếm những gì có thể tái khẳng định niềm tin của mình; chúng ta rất giỏi dựng chuyện để giải thích mọi điều sau khi nó xảy ra; chúng ta thường phớt lờ bằng chứng thầm lặng mang tên "nghĩa trang" nhưng lại tập trung quá mức vào các trường hợp thành công; giả định rằng thế giới tuân theo những quy tắc rõ ràng và dễ hiểu; và chúng ta thường đánh giá quá cao những gì mình biết trong khi lại đánh giá thấp những gì chúng ta không biết.
Sau đây là vài đoạn trích từ sách Thiên Nga Đen:
"Thông tin là thứ không tốt cho kiến thức"
Aristotle Onassis, có lẽ là nhà tài phiệt đầu tiên, chủ yếu nổi tiếng vì giàu có - và vì thể hiện được sự giàu có đó. Là một người Hy Lạp tị nạn từ miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, ông đã đến Argentina và kiếm được một món hời nhờ nhập khẩu thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ vào nước này, và sau đó trở thành ông trùm ngành vận tải biển. Ông ta đã bị nguyền rủa khi phản bội giọng ca opera huyền thoại Mara Callas, khiến bà này đau đớn tự giam mình và từ giã cõi đời trong một căn hộ ở Paris, để kết hôn với Jacqueline Kennedy, goá phụ của Tổng thống Mỹ John F. Kennedy.
Nếu nghiên cứu về cuộc đời của Onassis, người mà tôi đã dành một phần thời gian tuổi trẻ để nghiên cứu, bạn sẽ nhận thấy được một trạng thái đều đều thú vị: "công việc," theo đúng nghĩa thông thường nó, không phải là thứ ông ta thường làm. Thậm chí, ông ta còn không buồn trang bị cho mình một chiếc bàn giấy, nói gì đến văn phòng. Tuy nhiên, công cụ chính của ông là một cuốn sổ ghi chép chứa đựng tất cả những thông tin cần thiết.
Cuộc đời Onassis là một chuỗi những nỗ lực kết thân với những người giàu có, nổi tiếng và theo đuổi (cũng như sưu tập) phụ nữ. Ông ta thường thức dậy vào buổi trưa. Nếu cần được tư vấn pháp lý, ông ta sẽ triệu tập các luật sư của mình đến một hộp đêm nào đó ở Paris lúc hai giờ sáng. Người ta nói ông có một sức hấp dẫn không cưỡng nổi - điều đã giúp ông chiếm được thiện cảm của mọi người.
Có thể có một hiệu ứng "Phát điên vì ngẫu nhiên", ở đây, hiệu ứng của việc tạo ra mối liên hệ tình cờ giữa thành công và thói quen làm việc của Onassis. Có thể tôi không bao giờ biết được Onassis tài giỏi hay may mắn, dù luôn tin rằng sự thành công của người đàn ông này là nhờ sức hấp dẫn của chính bản thân ông ta. Thế nhưng, tôi vẫn có thể kiểm tra thói quen làm việc đó của người này bằng cách xem xét nghiên cứu thực nghiệm về mối liên hệ giữa thông tin và hiểu biết. Vì thế, tuyên bố cho rằng kiến thức bổ sung về các hoạt động kinh doanh hàng ngày có thể chẳng có ích lợi, thậm chí còn độc hại là tuyên bố gián tiếp nhưng lại rất hợp lý.
Tin tức giật gân và Thiên Nga Đen
Bây giờ, hãy cùng xem xét ảnh hưởng của lối viết trần thuật đến hiểu biết của chúng ta về Thiên Nga Đen. Bài trần thuật, cùng với đặc tính nổi bật của thông tin giật gân, có thể làm nhiễu dự đoán của chúng ta về các khả năng xảy ra. Hãy phân tích thí nghiệm dưới đây của Kahneman và Tversky:
a. Một trận lụt dữ dội xảy ra tại Mỹ làm hơn một nghìn người chết.
b. Một trận động đất tại California, gây ra lũ lụt dữ dội, và làm hơn một nghìn người chết.
Những người tham gia thí nghiệm ước đoán rằng sự kiện đầu tiên ít có khả năng xảy ra hơn so với sự kiện thứ hai. Tuy nhiên, trận động đất tại California chính là nguyên nhân mà người ta có thể tưởng tượng ra, điều này làm tăng đáng kể tính hữu dụng trí lực (mental availability) - mà ở đây được hiểu là xác suất ước lượng - về viễn cảnh lũ lụt.
Tương tự, nếu tôi hỏi có bao nhiêu ca ung thư phổi có khả năng xảy ra trên khắp đất nước này, bạn sẽ đưa ra một con số, như nửa triệu ca chẳng hạn. Bây giờ, đổi lại, nếu tôi hỏi có bao nhiêu ca ung thư phổi do hút thuốc, nhiều khả năng là bạn sẽ đưa ra một con số cao hơn rất nhiều (có thể đoán là cao gấp hai lần con số trước đó). Thêm vào từ do khiến vấn đề trở nên đáng tin cậy hơn và hợp lý hơn nhiều. Ung thư do hút thuốc có vẻ như hợp lý hơn ung thư mà không có nguyên nhân rõ ràng - một nguyên nhân không xác định đồng nghĩa với không có nguyên nhân nào hết.
Câu nào trong hai câu sau đây hợp lý hơn?
Cuộc sống hôn nhân của Joey có vẻ rất hạnh phúc. Anh ta giết vợ mình.
Cuộc sống hôn nhân của Joey có vẻ rất hạnh phúc. Anh ta giết vợ mình để chiếm đoạt tài sản.
Thoạt nhìn, câu thứ hai có khả năng xảy ra cao hơn, tuy nhiên, đây chính là một sai lầm thuần túy của lôgic, bởi câu đầu tiên, với phạm vi rộng hơn, có thể ẩn chứa nhiều nguyên nhân hơn như anh ta giết vợ bởi khi đó anh ta lên cơn điên, hay do cô ấy qua lại với gã đưa thư và huấn luyện viên trượt tuyết, hay bởi vì anh ta bị ảo giác và nhầm tưởng cô vợ là một gã dự báo tài chính.
Về những nguyên nhân khiến tôi bác bỏ các nguyên nhân
Mùa thu năm 2004, tôi tham dự hội thảo về mỹ học và khoa học được tổ chức tại Rome. Trong bữa ăn trưa, một vị giáo sư lỗi lạc đến từ một trường đại học thuộc miền Nam nước Ý đã chào đón tôi hết sức nồng nhiệt. Sáng hôm đó, tôi đã nghe ông thuyết trình một cách say sưa; ông thật lôi cuốn, tự tin và có sức thuyết phục đến mức dù không hiểu hết những gì nghe thấy nhưng tôi cảm thấy bản thân mình hoàn toàn nhất trí với ông ở mọi điều. Vốn tiếng Ý của tôi chỉ thích hợp cho các buổi tiệc cocktail hơn là những buổi hội thảo uyên thâm và mang tính học thuật như thế này.
Ở một số điểm trong bài thuyết trình của mình, ông giận đến đỏ cả mặt - do đó càng thuyết phục tôi (và
khán giả) rằng ông hoàn toàn đúng. Ông không ngừng hỏi chuyện trong suốt bữa ăn trưa và chúc mừng tôi vì đã chứng minh được ảnh hưởng của các liên kết ngẫu nhiên vốn thường tồn tại trong bộ não con người hơn trong thực tế. Ông ta trò chuyện bằng thứ tiếng Pháp nặng (kèm theo cử chỉ múa tay), tôi trả lời bằng thứ tiếng Ý nguyên thủy (cũng kèm theo động tác múa tay), chúng tôi sôi nổi đến mức những vị khách khác không dám chen vào một cuộc đàm thoại đầy ắp thông tin quan trọng và vô cùng hào hứng như thế.
Ông ngưng một lúc và sau đó bổ sung bằng một chất giọng trầm hơn: "Nhưng, bạn thân mến, cho phép tôi nói với anh vài điều... Anh có thể nhìn thấy sự may mắn và đồng thời có thể tách biệt được nguyên nhân và kết quả là nhờ vào di sản Giáo Hội Chính Thống Vùng Địa Trung Hải của mình." Ông ấy sử dụng từ nhờ vào bằng tiếng Pháp. Ông ấy nói thuyết phục đến mức, trong một khoảnh khắc, tôi đã đồng ý với cách lý giải đó.
Chúng ta thích những câu chuyện, thích tóm tắt và thích đơn giản hoá, nghĩa là giảm quy mô của vấn đề. Điều đầu tiên trong số những vấn đề về bản chất con người mà chúng ta sẽ xem xét trong phần này, mà vừa được minh hoạ bên trên, chính là liên tưởng ngụy biện, theo cách gọi của tôi. (Thật ra, đây là một sự gian lận, nhưng để lịch sự hơn, tôi sẽ gọi nó là ngụy biện.) Sự ngụy biện này có liên quan đến khả năng dễ bị tổn thương của chúng ta trước cách diễn giải quá mức, cũng như việc chúng ta thích các mẫu chuyện súc tích hơn sự thật trần trụi. Nó bóp méo nghiêm trọng cách hình dung của chúng ta về thế giới; và trở nên vô cùng nguy cấp khi có liên quan đến các biến cố hiếm.
Một giải pháp đang chờ đợi vấn đề
Kỹ thuật la-de là minh chứng cụ thể nhất về một công cụ được thiết kế cho một mục đich nào đó (thật ra chẳng có mục đích nào cả), nhưng sau đó đã tìm ra các ứng dụng mà con người thậm chí chưa từng dám mơ đến vào thời điểm đó. Nó chính là một "giải pháp tìm kiếm vấn đề."
Trong số những ứng dụng đầu tiên của la-de là kỹ thuật khâu võng mạc bị rách. Nửa thế kỷ sau, tờ The Economist đã hỏi Charles Townes, người được cho là nhà phát minh ra kỹ thuật la-de rằng liệu ông ta có lo lắng về vấn đề võng mạc không. Câu trả lời là không. Ông ta chỉ muốn thoả mãn khao khát được tách các chùm ánh sáng, và chuyện chỉ có thế. Thực ra, các đồng nghiệp của Townes đã trêu chọc ông rất nhiều về tính không phù hợp của phát minh đó. Tuy nhiên, hãy xem xét những hiệu ứng của kỹ thuật la-de trong thế giới quanh ta: đĩa compact, chỉnh thị lực, thuật vi phẫu, lưu trữ và phục hồi dữ liệu - tất cả các ứng dụng ngoài dự kiến của công nghệ này.
Chúng ta tạo ra đồ chơi. Một vài trong số những đồ chơi này làm thay đổi thế giới.
Sự tàn nhẫn của những kẻ đồng đẳng
Mỗi sáng, bạn rời khỏi căn hộ chật hẹp ở khu East Village, thành phố Manhattan để đến phòng thí nghiệm tại trường Đại học Rockerfeller, khu East Sixties. Tối mịt bạn mới về, những người quen sẽ hỏi thăm về ngày làm việc của bạn, và chỉ hỏi theo cách xã giao thuần túy. Ở phòng thí nghiệm, mọi người cư xử khéo léo hơn. Dĩ nhiên, ngày hôm đó của bạn không suôn sẻ gì; bạn không phát hiện ra gì mới cả. Bạn không được như anh thợ sửa đồng hồ.
Tuy nhiên, việc không phát hiện được gì lại rất có giá trị bởi nó là một phần của quá trình khám phá - tức bạn đã biết được không cần phí công nghiên cứu ở những chỗ nào. Khi biết được kết quả (nghiên cứu) của bạn, các nhà nghiên cứu khác sẽ tránh lặp lại những thí nghiệm đó, với điều kiện phải có một tờ báo đủ sâu sắc để đánh giá việc không phát hiện được gì ấy là thông tin và cho đăng tải nó.
Trong khi đó, em vợ của bạn đang là nhân viên bán hàng cho một công ty ở Phố Wall và liên tục nhận được các khoản hoa hồng lớn - không chỉ lớn mà còn ổn định. Những ngày nghỉ có thể trở nên rất tồi tệ. Bạn chạm mặt đứa em vợ trong các buổi họp mặt gia đình và, lúc nào cũng vậy, nhận ra những dấu hiệu thất vọng không thể lẫn vào đâu được từ phía vợ mình, mà nói một cách ngắn gọn, cô ấy đang lo sợ không biết có cưới nhầm một gã vô tích sự không, trước khi nhớ ra các nguyên tắc lôgic trong nghề nghiệp của bạn.
Tuy nhiên, cô ấy vẫn phải đấu tranh với cơn bốc đồng của mình. Cô em dâu thì không thôi nói về những thứ cần mua sắm hay loại giấy dán tường mới. Suốt đoạn đường về nhà, vợ bạn hơi im lặng so với thường ngày. Sự hờn dỗi của cô ấy sẽ trầm trọng hơn đôi chút nếu bạn đang lái một chiếc xe thuê vì không thể xây nổi một cái ga-ra để xe ở Manhattan. Bạn nên làm gì bây giờ? Chuyển đến Úc sống và nhờ đó ít phải họp mặt gia đình, hoặc thay đổi đứa em vợ bằng cách cưới một cô nào khác có em trai ít "thành công" hơn.
Câu chuyện về những người sùng tín bị chết đuối
Hơn hai ngàn năm trước, Stoic, nhà hùng biện, nhà văn, nhà tư tưởng La Mã, cùng với Marcus Tullius Cicero - một quý ông đức cao vọng trọng - đã kể câu chuyện sau. Người ta cho một Diagoras, một triết gia vô thần, xem những bảng gỗ khắc chân dung một số người sùng tín - những người đã cầu nguyện và sống sót sau một vụ đắm tàu. Hàm ý ở đây là sự cầu nguyện sẽ giúp bạn khỏi chết đuối. Digoras bèn hỏi, "Thế còn bức ảnh những người cầu nguyện nhưng sau đó vẫn chết đuối đâu?"
Những người sùng tín bị chết đuối hẳn sẽ gặp nhiều khó khăn khi muốn "quảng bá" về trải nghiệm của mình dưới đáy đại dương. Điều này có thể đánh lừa những người quan sát cẩu thả và khiến họ tin vào phép màu. Chúng tôi gọi đây là bài toán về bằng chứng thầm lặng. Ý tưởng này đơn giản nhưng có sức thuyết phục và ảnh hưởng mạnh mẽ. Trong khi hầu hết các nhà tư tưởng đều nỗ lực để vượt trội hơn tiền bối của mình thì Cicero đã bỏ xa lớp hậu bối - những nhà tư tưởng kinh nghiệm chủ nghĩa cho đến tận ngày nay.
Bằng chứng thầm lặng có ảnh hưởng đối với tất cả những thứ liên quan đến khái niệm lịch sử. Khi sử dụng hai từ lịch sử, tôi không chỉ muốn nói đến những cuốn sách nhàm chán mà chúng ta bị buộc phải học trong lĩnh vực Lịch sử (với những bức tranh thời Phục Hưng in ở bìa để thu hút người xem). Xin nhắc lại rằng, lịch sử là một chuỗi các sự kiện được xem xét trong ảnh hưởng của trình tự diễn ra sau đó.
Hoàng Trung (TVN)
Xem thêm: Economists are from Mediocristan
Xem online : Black Swan: Mediocristan and Extremistan
[1] The Black Swan, 2007, Nassim Nicholas Taleb.
[2] Fooled by Randomness, tên một cuốn sách nổi tiếng của Taleb.