Trang nhà > Hà Nội > Địa linh > Kẻ Chợ - Kattigara xa xăm thân yêu?
Kẻ Chợ - Kattigara xa xăm thân yêu?
TS Ngô Đức Thọ
Thứ Ba 5, Tháng Mười 2010
1. Để mở đầu bài viết tôi xin trích Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích địa danh Kẻ Chợ như sau. Ngoài một cụm từ khá mới: “Hạt nhân kinh tế -xã hội”, mấy thông tin chủ yếu trong mục từ nói trên đại thể cũng giống như Lịch sử Việt Nam Tập I đã viết ngót 30 năm trước:“Thăng Long bấy giờ quen gọi là kinh kỳ hay Kẻ Chợ, là một thành thị vào loại lớn ở Á Đông. Người phương Tây đến nước ta hồi thế kỷ XVII đều nhận xét Thăng Long là một thành thị lớn ở châu Á…” Nói tóm gọn thì cả hai tài liệu dẫn trên đều cho rằng:
Từ Kẻ Chợ do người phương Tây thường gọi kinh thành Thăng Long mà có.
Thời gian xuất hiện và quen dùng chỉ trong khoảng hai thế kỷ 17 -18.
Càng gần đến Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, trên các trang báo giấy báo mạng xuất hiện nhiều bài viết về Kẻ Chợ, nhiều chi tiết bình luận, dẫn chứng ca dao tục ngữ v.v.., nhưng chủ yếu vẫn chỉ có hai thông tin như trên. Đáng chú ý có bài của tác giả Phan Văn Tình phát hiện việc “người phương tây” đã ghi về địa danh Kẻ Chợ trong Từ điển Việt - Bồ - La (1651), ở mục từ Kẻ, soạn giả Alexandre de Rhodes giải thích: "Những người, chỉ dùng nói về người ta khi nói cách không kính trọng. Kẻ chợ: Những người ở trong chợ, nghĩa là những người ở kinh đô Đông Kinh" (tr.123, phần Phụ lục tiếng Việt).
Bài sưu tầm của ông Tình[1] được nhiều báo chuyển tải, cho là “thông tin rất độc đáo”. Đáng tiếc đó là một mục từ đã bị A.de Rhodes định nghĩa và giải thích sai (xin xem ở dưới).
2. Tôi không có nhiệm vụ chuyên trị địa danh “Kẻ Chợ”, nhưng một dịp cách đây 6-7 năm có bạn nghiên cứu là một giáo sư người Pháp bất ngờ hỏi tôi: trong tài liệu Hán Nôm có chỗ nào có từ Kẻ Chợ không? Câu hỏi thật bất ngờ nhưng thú vị. Điểm nhanh quả thật thấy chưa có bài viết nào nói đến từ Kẻ Chợ trong thư tịch bi ký Hán Nôm, đành trả lời: không. Nhưng vì câu hỏi đó, hễ có dịp là tôi tìm đọc trong các sách của Lê Quý Đôn, Phạm Đình Hổ, Phan Huy Chú v.v…, cả nhiều thác bản văn bia mà tôi thường xem: tịnh không một tài liệu nào có từ Nôm cổ quý thân yêu đó. Bây giờ tôi đã có cả “ lô sêcxông” tư liệu từ Kẻ Chợ trong sách Hán Nôm. Hân hạnh trích ảnh dẫn ra đây một số để quý vị và các bạn tận mắt nhìn thấy từ Nôm đặc sắc này:
Sơ thụ Kinh quan giáo chức = Mới sơ chịu làm quan giáo chức KẺ CHỢ (Trà đồng giáng đản lục, Q.1-52b)
Thiệu Bình gian ngụ cư Trường An = Năm Thiệu Bình thủa ấy ra ở KẺ CHỢ (Tây Viên kỳ ngộ ký, Q.1- 61a)
Kinh thành sĩ nữ quan du tứ xuất = Trai gái trong KẺ CHỢ bốn bề ra xem chơi (Tây Viên kỳ ngộ ký, Q.1- 66a)
Sổ nguyệt hậu, sinh hương tín chí Trường An = Sau vài tháng, ngươi Nhân Giả có tin nhà đến KẺ CHỢ (Tây Viên kỳ ngộ ký, 67 a-b)
Trích hết phải đến 3-40 câu. Từ Kẻ Chợ như vậy có cứ liệu văn bản Hán Nôm khá rõ ràng:
Về chữ Nôm không có gì mới lạ: chữ KẺ 几 (Nôm) viết bằng chữ Kỷ 几 (Hán Việt). Chữ CHỢ (Nôm) trên là chữ Trợ 助 (giúp), dưới là chữ Thị 市 (chợ), thuộc cấu trúc biểu âm kiêm biểu ý. Cái đáng chú ý nhất đó là minh chứng xác tạc, nói lên rằng tên gọi kẻ Chợ do người nước ta ghi trên văn bản của ta chứ không phải nhờ người Tây ghi mà có.
Nhưng về niên đại, Truyền kỳ mạn lục khắc in năm Cảnh Hưng 24 (1763), chưa vuợt khỏi cái vành đai hai thế kỷ 17-18. Có thể biện luận để đẩy từ Kẻ Chợ ở sách này lên thế kỷ 16 vì Nguyễn Dữ là người thế kỷ 16. Nhưng từ Nôm Kẻ Chợ lại thuộc phần dịch Nôm của Nguyễn Thế Nghi, mà tiểu truyện Nguyễn Thế Nghi trong phần Tục biên của Công dư tiệp ký - tuy có ghi “ông có diễn Truyền kỳ truyện nghĩa”, không chỉnh lắm, nhưng có thể hiểu đó là nói việc Nguyễn Thế Nghi dịch Nôm Truyên kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ - các chi tiết khác có vẻ giai thoại nghich ngợm, nửa tin nửa ngờ (như nói sau khi được phong tước Đại Hưng hầu, Nguyễn Thế Nghi bèn đến cửa Đại Hưng (tức Cửa Nam) đề một câu thơ: “Anh hùng ai nấy nhung nhăng, Nào ai đến cửa Đại Hưng chẳng luồn!). Nhà Mạc không có sử riêng, nhưng chính sử như Toàn thư, Cương mục, hoặc tư sử như Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn không một lần nào nhắc đến Đại Hưng hầu v.v…
3. Việc tìm thấy từ Kẻ Chợ trong TKML thúc đây tôi phải cố tìm nữa để có tư liệu càng cổ hiếm hơn càng tốt! Hoá ra tài liệu cần tìm vốn dĩ tôi đã có trong tay từ lâu: Đó là nguyên bản in của cuốn từ điển song ngữ Hán Nôm mang tên Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Tôi đã nghiên cứu một số chuyên đề về cuốn sách này, không ngờ trong đó hai chữ muôn vàn quý giá:
Bang kỳ: KẺ CHỢ khoẻ bền muôn thu
邦 畿:几 助 劸 卞 門 秋 (Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, 5a)
Chữ thuộc cấu trúc biểu âm, dùng Trợ 助 Hán Việt để ghi âm Nôm Chợ. Niên đại của bản in sách Chỉ nam ngọc âm cũng tức là niên đại của địa danh Nôm KẺ CHỢ đã trích dẫn ảnh trên đây, tôi đã có chuyên đề nhiều năm tìm kiếm cứ liệu và thực hiện một nghiên cứu bao gồm liên tiếp 9 công đoạn: 1-Khảo sát và chứng minh chữ không phải chữ “sào” 巢 như TS.TXNL đã đọc. 2-Dẫn các mẫu và công trình nghiên cứu để chứng minh đó là một chữ viết kiêng huý - gồm chữ đặt dưới một ký hiệu có 4 nét gãy chuyên dùng để thể hiện các chữ kiêng huý. 3-Tìm cách đọc âm của chữ 踝 (chữ này rất cổ và hiếm, phải tra cứu trong các từ thư tự điển trước thời Đường Tống như Ngọc thiên, Nhĩ nhã v.v…), các định chính âm của nó đọc là “hoả” (hô ngoã thiết), chứ không phải là “khoả” như chị L. đã đọc. 4-Khảo cứu chứng minh chữ viết bộ “túc” 足 chứ không phải chữ bộ “nhật” 暕 5-Tìm kiếm xác định “HOẢ” là chữ tên huý của vị vua chúa nào trong lịch sử Việt Nam. – Vì thời Hồ không còn một thư tịch bi ký nào nên khi thống kê hay nghiên cứu giai đoạn này, hết triều Trần chúng ta thường chuyển ngay sang triều Lê sơ. Do đó tôi quyết định phải nghiên cứu vấn đề kiêng huý dưới triều Hồ. 6-Tận sức sưu tập từ nguồn tư liệu hết sức ít ỏi để dựng cho được bản lược đồ phả hệ của họ Hồ. 7-Lược đồ dựng xong vẫn không thấy chữ “Hoả” xuất hiện, kiểm tra lại, quả nhiên phát hiện thông tin cần tìm trong Đại Việt sử ký toàn thư. Toàn thư ghi rõ Hồ Hán Thương - vị vua thứ hai của triều Hồ - khi nhỏ (trước khi làm vua) tên là HOẢ. Xác định 踝 (Hoả) là tên của Hồ Hán Thương trước khi nối ngôi, do kiêng huý được viết thêm thành 8-Tìm cứ liệu chứng minh việc kiêng huý chữ Hoả: Núi Hoả Vân sơn và ngôi lầu trên núi ấy là Hoả Vân lâu từ đời Trần về trước đều ghi với tên ấy, từ đầu đời Hồ Hán Thương đổi gọi là Đại Vân sơn và Đại Vân lâu. Toàn thư đã chép theo tên đã đổi đó (Toàn thư, BK1-16b) 9-Không chỉ chữ huý của Hồ Hán Thương, cả chữ kiêng huý Hồ Quý Ly cũng được tìm thấy (Chỉ nam ngọc âm, 5b) [2]. Quá trình khảo cứu trải qua 9 công đoạn liên hoàn, phải có kết quả chính xác ở công đoạn trước mới có thể thực hiện được công đoạn sau, để đi đến kết luận chữ viết trên văn bản là chữ tên huý của Hồ Hán Thương (1401-1407) và năm Tân Tị khắc trên nguyên bản là năm Tân Tị 1401 niên hiệu Thiệu Thành thứ 1 đời Hồ Hán Thương.
Đến đây chúng ta có bằng chứng chắc chắn để xác định niên đại khắc in của nguyên bản sách Chỉ nam ngọc âm hiện có là năm Tân Tị 1401.[3]
Đó cũng là niên đại tối thiểu của từ KẺ CHỢ xuất hiện trong sách này (đầu thế kỷ XV), nhưng sách phải qua quá trình biên soạn và khắc in trước đó nhiều năm và hoàn toàn có thể nâng tuổi thọ của hai chữ KẺ CHỢ đó vào trong khung của thế kỷ 14.- đã cổ hơn 3-4 thế kỷ so với vành đai quá gò bó hai thế kỷ 17-18!
4.a “Chắc đằng chân lân đằng đầu”: địa danh KẺ CHỢ như vậy chắc chắn đã có tuổi đời từ thế kỷ 14-15 rồi. Lời Chỉ nam ngọc âm rất vang:
Kinh kỳ: KẺ CHỢ khoẻ bền muôn thu!
Lần này phải tìm sâu trong lịch sử dân tộc. Thú thực, chắc cũng nhiều người nhận thấy cổ sử nước ta còn như một cái vườn hoang: nào tên nước là Văn Lang, các bộ Giao Chỉ, Chu Diên, v.v...Thời đó nước ta đã đã bị người Tàu đô hộ đâu mà họ nhảy sang đặt tên cho các bộ của vua Hùng? Còn nhiều vấn đề trống trơn quá. Từ lâu tôi vẫn suy nghĩ về địa danh Giao Chỉ, nhân dịp này cũng cố gắng tìm kiếm thêm. Nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ, ngày nay việc tra cứu trên mạng đem lại nhiều tiện ích. Hãy dẫn ra đây muc “Giao Chỉ” trong Bách khoa toàn thư mở Wikipedia xem họ nói thế nào:
Giao Chỉ (chữ Hán 交 趾 hoặc 交 阯) là tên gọi địa danh một phần lãnh thổ Việt Nam trong lịch sử, từ thời Hùng Vương đến các kỳ thời Bắc thuộc.:
Định nghĩa như vậy xét nội hàm xem ra không sai, nhưng vẫn bám vào từ Giao Chỉ là không ổn, lý do như trên đã nói. Thời ấy đã có giao lưu văn hoá mở trường dạy tiếng Tàu đâu? Sử ghi người Việt Thường sang sứ nhà Chu phải qua hai lần phiên dịch (trùng dịch) mới hiểu ý nhau. Tóm tắt mấy điểm chính Wikipedia giải thích từ Giao Chỉ:
Theo Từ hải, chữ 趾 có 4 nghĩa: 1 Cùng nghĩa với "cước" là chân. 2-Nghĩa là "cước chỉ", tức ngón chân. 3-Nghĩa là "tông tích", tức dấu tích. 4-Thông nghĩa với chữ chỉ có bộ thổ 址, nghĩa là cái nền, nền móng, như "cơ chỉ", "trụ chỉ".
Do vậy chữ Chỉ được hiểu theo nhiều cách, từ đó chữ Giao Chỉ cũng được hiểu theo nhiều cách. Đỗ Hựu trong bộ Thông điển cho rằng: "Giao Chỉ là người Nam di, ngón chân cái toạc ra, đứng thẳng hai bàn chân thì ngón chân cái giao vào nhau, cho nên gọi là Giao Chỉ (chỉ là ngón chân cái)". Ý kiến này được nhiều học giả Trung Hoa và Việt Nam chấp nhận”. (không dẫn hết)
Về ý thứ 3 nói: vì người Giao Chỉ hai ngón chân cái xoạc ra như giao vào nhau thì đúng là khá phổ biến. Tôi từ nhỏ đã được người lớn giảng cho nghe như thế. Sau này thấy nhiều cụ già có hai ngón chân cái xoạc ra, tôi vẫn nghĩ do người mình từ nhỏ đã phải gánh vác nặng, đường đất mưa bùn lầy lội phảm bám chân chặt, ngón cái lâu ngày xoạc ra v.v…
Wikipedia có thể ghi lại như vậy để biết, nhưng coi đó như giải thích chính thức thì sai lầm là cái chắc! Tôi từ lâu đã không còn tin vào cách giải thích địa danh theo kiểu giai thoại như vậy. Không ít tác giả đã viết về Giao Chỉ, nhưng về tên gọi thì hoặc không đề cập đến, hoặc nhắc lại các quan niêm sai rất cũ như thể hiện ở Wikipedia đã trích trên đây[4]. Wikipedia chỉ đúng được một điều khi nói Giao Chỉ “còn được dùng để gọi người Việt cổ”, không gắn từ Giao Chỉ với cuộc xâm lăng của Mã Viện gợi lại thời Bắc thuộc tủi nhục ngày xưa. Nay cũng trên mạng tôi thấy có các cháu thiếu niên chát với nhau lấy nicnam “Giao Chỉ” một cách thích thú. Đúng như thế, riêng tôi qua tìm hiểu cảm thấy rất tự hào với từ Kẻ Chợ (phiên âm tiếng Hán là Giao Chỉ) chứ không phải vay mượn của Trung Hoa.
4.b Không đủ sức đọc và giới thiệu hết các thư tịch của Trung Quốc xưa và nay viết về Giao Chỉ, chỉ nhắc lại tư liệu khởi đầu rất quan trọng: Địa danh Giao Chỉ đã được nói đến ngay sát trang đầu trong bộ sách kinh điển quan trọng bậc nhất và cổ nhất của Trung Quốc là Thư kinh. Công việc đầu tiên của vị vua đầu tiên của Trung Quốc là vua Nghiêu[5] ngay sau khi nhận ngôi là sai 4 người anh em của Hi và Hoà đi bốn phương quan sát thiên văn: “Thân mệnh Hi thúc trạch Nam Giao”. Hết thảy các nhà chuyên trị kinh Thư xưa nay đều nhất trí chú giải “Nam Giao là đất Giao Chỉ ở phương Nam”. “Trạch Nam Giao” chỉ có nghĩa là đến ở nơi gần, tiếp giáp với Giao Chỉ, chứ không phải là đến làm nhà trên đất Giao Chỉ - Bởi vì trong Cửu Châu của Trung Quốc cổ không có tên Giao Chỉ, mà người Trung Quốc xưa nay cũng tuyệt đối không ai dám nhận đất Giao Chỉ thuộc Trung Quốc từ thời vua Nghiêu. Câu dẫn trên chỉ chứng tỏ một điều: từ rất lâu đời, ngang thời vua Nghiêu và trước đó nhiều nữa, phía nam Trung Quốc có một miền đất gọi là Giao Chỉ. Tuyệt đối cũng không có tài liệu nào nói cái tên Giao Chỉ đó do một ông vua hay một người Tàu nào đặt ra, đơn giản họ chỉ ghi tên đất ấy là Giao Chỉ. Nhưng tại sao địa danh của một nước khác lại ghi bằng chữ Trung Quốc? Chẳng lẽ thời ấy người đất ấy đã thông dụng Hán văn? (Ghi thêm: Cũng có tài liệu của ta nói thời Hùng vương đã có người Tàu sang mở trường dạy học! Nhưng đó là câu chuyện của thần tích viết trên trời dưới biển chứ chẳng phải chuyện thật!)
Thời gian độc lập của người Việt lâu dài cả mấy ngàn năm như vậy. Năm 214 TCN Tần Thuỷ Hoàng sai Đồ Thư tiến quân xuống Lĩnh Nam chiếm lấy các đất Lục Lưong, đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng quận. Ghi về sự kiện ấy, người chú thích nguyên bản Đại Việt sử ký toàn thư (viết tắt: Toàn thư) đã chú nhầm Tượng quận “tức là An Nam”. Thực ra thì Đồ Thư chỉ chiếm được đến miền đất phía nam Quảng Tây và nam Quý Châu ngày nay[6], không có chuyện quân nhà Tần xâm chiếm nước ta. Đất Giao Chỉ chỉ thực sự mất vào tay Triệu Đà năm 207 TCN như sử đã ghi[7]. Hán Vũ đế sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc sang xoá nhà Triệu, nước ta từ đó bị đặt vào chế độ quận huyện lệ thuộc Trung Quốc. Nhà Hán sai Thạch Đái làm Thái thú Giao Châu gồm 9 quận, trong đó có một quận gọi tên là quận Giao Chỉ (miền Bắc nuớc ta hiện nay). Địa danh Giao Chỉ như vậy là có gắn với thời Bắc thuộc, nhưng không phải Thạch Đái tự nghĩ ra, y chỉ nhân theo tên nước Giao Chỉ cũ lấy đặt tên cho một quận - Việc này cũng y hệt như sau này ta lại mất nước về tay người Pháp, thực dân Pháp lấy ngay tên gọi An Nam có từ đời thuộc Đường (thời Lê người nước ta cũng có khi dùng[8], chứ không phải do người Pháp có dụng ý thiếu tôn trọng mà đặt ra!
Hiểu sai từ Giao Chỉ là miền đất của Trung Quốc cổ thì chỉ có những sử gia người Tàu mà thôi. Không điểm hết được, chẳng hạn trang mạng Bách độ Bách khoa:
“Giao Chỉ: địa danh thời cổ của Trung Quốc ( vị trí ở nước CHXHCN Việt Nam hiện nay)” (!!)[9].
Nhưng cũng có những người hiểu đúng, như Hỗ động bách khoa viết:
“Giao Chỉ tức nước Việt Nam (tên thời cổ là nước Giao Chỉ [Giao Chỉ quốc])”[10]
Tác giả này viết rất rõ: “Việt Nam tên thời cổ là nước Giao Chỉ.” Không có lý do gì để phản bác định nghĩa rất đúng đó! Giao Chỉ trước khi bị xâm lược là đất nước độc lập tự chủ, có truyền thống lâu đời, sánh ngang với Trung Quốc. Có thể vì thế mà cụ Phan Bội Châu khi hoạt động ở Trung Quốc lấy bút danh là “Giao Chỉ khách” (người khách nước Giao Chỉ).
Vậy, có thể khẳng định nội dung của địa danh Giao Chỉ là chỉ vào nước Việt Nam thời cổ, khi đất nước còn độc lập tự chủ, không có gì phải băn khoăn nghi ngờ nữa. Chúng ta chỉ còn phải lý giải một điều tại sao không gọi bằng tiếng Việt mà lại gọi từ Hán Việt là Giao Chỉ?
Qua giải thích của Wikipedia đã dẫn trên đủ thấy quan niệm tên Giao Chỉ gắn với đặc điểm ngón chân cái của người Việt là một thiên kiến hết sức sai lầm cho đến nay vẫn còn chiếm ưu thế.
Dù sao cũng không phải tất cả, vẫn có người hiểu đúng tên gọi này. Trước khi giới thiệu cách hiểu đúng, có thể còn ít người biết, do nội dung liên quan xin được nói đến một công trình có giá trị rất lớn: Đó là cuốn Địa lý học (Geographia)của Claudius Ptolemaeus (tiếng Hy Lạp: Κλαύδιος Πτολεμαῖος Klaudios Ptolemaios), người Hy Lạp (khoảng 100-178 SCN) được coi là người khai sáng ra môn địa lý học[11].
(Nguồn: Wikipedia. Mảnh cắt phóng to do bút giả thực hiện)
Tham khảo nhiều nguồn, đã biết trước địa danh Giao Chỉ từng được ghi là Kattigara hoặc Cattigara, nhưng xem trên bản đồ vài lần tôi cũng chưa thấy. Sau tham khảo tài liệu của một chuyên gia hàng hải, tôi mới nhận ra địa điểm ấy. Nhà nghiên cứu ấy là ông Vũ Hữu San hiện định cư ở nước ngoài, gần đây có những công trình khảo cứu có giá trị về chủ quyền Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ông không nghiên cứu từ Kẻ Chợ, nhưng trong bài của ông viết về chủ quyền biển đảo tôi đọc được chỉ dẫn của ông, nhờ đó mà làm được mảnh trích ảnh phóng to địa danh Kattigara trên bản đồ của Ptolémy. Lần đầu tiên thấy mấy chữ đó tôi cảm nhận một điều gì đó rất phấn chấn. Thì ra mảnh đất Giao Chỉ thân yêu của chúng ta cách nay ngót hai nghìn năm đã có tên trên tấm bản đồ thuộc hạng cổ nhất nổi tiếng nhất của thế giới. Xin dẫn Vũ Hữu San để độc giả tham khảo:
"Sau cuộc viễn chinh của Alexandre Đại đế (336-323 Tây lịch) sang Ấn Độ, nhiều giao tiếp đã xảy ra giữa Á - Âu, người Hy Lạp biết thêm nhiều sinh hoạt của người Á Châu. Eratosthene (275-195 TTL) viết sách Geographia, Ptolemy (khoảng 100-170) phát triển môn địa lý, viết sách và hình dung ra một bản đồ thế giới mà tận cùng về phía Đông – Đông Nam là bán đảo Vàng Chersonese và hải cảng Kattigara (hay Catigara, kinh độ 117 độ Đông, vĩ độ 8 độ nam Kinh tuyến gốc lấy từ đảo Ferro (Islands of the Blest - quần đảo Canary). Bán đảo Vàng là Đông Dương và Kattigara (có bản đồ ghi là Cattigara) chỉ Kẻ Chợ (Kesho), Long Biên (Lugin) hay Hà Nội ngày nay.[12]
Trong một bài viết về con đường tơ lụa, Vũ Hữu San đã xác định trạm hải hành cuối cùng giữa Tây phương và Đông Á trong thời cổ là Cattigara mà ông đặt hẳn trong ngoặc đơn chỉ rõ đó là miền đất Hà Nội -Hải Phòng hiện nay[13].
Con đường tơ lụa. Bản đồ do Vũ Hữu San vẽ
Vấn đề thời gian của địa danh Kẻ Chợ như vậy đã rõ dần ra, nhưng còn phải giải thích và kiểm chứng: Ngay ông Vũ Hữu San, tuy thừa nhận Kattigara là Kesho -Kẻ Chợ, nhưng ông nhận thấy bản đồ Ptolémé đặt Cattigra quá xa về phía nam. Chủ kiến của ông dựa vào mấy bản đồ khác để xác định Cattigara vào vị trí Hà Nội - Hải Phòng như ông đã ghi rõ trên bản đồ con đường tơ lụa.
Bình Nguyên Lộc biết từ Cattigara sớm hơn Vũ Hữu San. Vị học giả này đọc rất nhiều mà phạm vi bàn bạc khảo cứu cũng rất rộng. Về Cattigara, ông chú ý đến Hòn Gay, nơi hòn đảo có tên xưa là Bến Ghe và cho rằng “nó ăn khớp phần nào với Kattigara của Ptolémée, chớ Kattigara không thể là Óc Eo như Melleret đã viết”. Giả thuyết cho Melleret – và cả R.A. Stein cho rằng Kattigara ở Óc Eo vậy là đã bị Bình Nguyên Lộc từ chối. Bình Nguyên Lộc cũng phê phán luôn cả những ông Tây đặt Kattigara vào tỉnh Quảng Đông TQ vì cho rằng không một địa danh nào ở Quảng Đông hợp với từ Kattigara cả. Quan điểm cuả Bình Nguyên Lộc thì ông lưu ý nhóm âm tiết Katthi “có thể nào là Kẻ Thị chăng? Vâng, Kẻ Thị và Kẻ Chợ cũng thế thôi. Và Kathi Gara là Kẻ Thị Gay, tức thành phố ghe thuyền, tức thương cảng”[14]. Tôi thấy vế đầu trong câu đó của ông Lộc là chính xác (xem thêm cứ liệu ở đoạn dưới), nhưng vế sau nói “Kẻ Thị Gay tức thành phố ghe thuyền” thì không dám coi là đúng.
5. Nhưng sớm hơn Bình Nguyên Lộc nhiều, từ cuối thế kỷ XIX đã có một nhà nghiên cứu người Pháp là Edouard Chavannes dùng phương pháp cổ ngữ học để giải thích từ Giao Chỉ:
“Kiao-tche 交 阯 (Giao Chỉ) : Người ta thường viết chữ thứ hai với bộ "túc" 趾, bởi vì, theo một truyền thống mà ta thấy được lặp lại nhiều lần đến phát chán trong giới tác giả Trung Hoa, cho rằng người nước này vốn có ngón chân cái chĩa ra; tuy vậy, có thể đương thời sự lý giải ấy là không có căn cứ, và cái từ Giao Chỉ ban đầu là sự biểu đạt ngữ âm của một cái tên bản địa. Liệu có thể Giao Chỉ chính là tên Kẻ Chợ, tức Hà Nội… M. Richthofen xác định nơi này với tên Kattigara trong bản đồ của Ptolémée (China, vol I, pp.509 et 510, note 1)”[15].
Xác định trước cả E.Chavannes khoảng hơn chục năm còn có tấm bản đồ Đông Dương xuất bản năm 1881 (Thư viện Quốc Hội Mỹ), trong đó thậm chí ở vị trí Hà Nội không đề tên Hanoi mà ghi tên Kesho – Có thể hiểu người soạn bản đồ rất quý địa danh cổ Kesho hơn Hà Nội mới có từ thời Minh Mệnh (1832).
Đến đây có thể thấy người Pháp đã biết Kesho là Kẻ Chợ tức Hà Nội là một địa danh rất cổ và quan trọng (chứ không đánh đồng Kẻ Chợ với các từ Kẻ khác như A.de Rhodes), nhưng phải đến 1894 Edouard Chavannes mới lý giải được rằng: Kesho cũng như Giao Chỉ, Kattigara đều là từ phiên âm tiếng bản địa (Việt) là Kẻ Chợ, hoàn toàn không có nghĩa gì liên hệ với ngón tay ngón chân!
Thế nhưng kiến giải khoa học ấy của E. Chavannes có lẽ ít người biết, hoặc biết mà bỏ qua, vì thế sau nhiều năm vẫn có người bảo Cattigara là cửa Ốc Eo hay ở vịnh Lăng Cô thuộc Thừa Thiên Huế v.v... Thời gian lịch sử cả mấy nghìn năm như vậy đến sát tận nay, không chỉ báo chí mà cả sách nghiên cứu nữa, vẫn như không nghe không biết, cứ trói chặt Kattigara - Kẻ Chợ với hình ảnh một Thăng Long dân dã chỉ với hai thế kỷ 17-18!
6.Trong khi người nước ta có vẻ như bỏ quên hoặc không chấp nhận Kattigara -Kẻ Chợ có thật từ đầu công nguyên, thì sau ngót trăm năm có một nhà nghiên cứu Trung Quốc xác nhận thuyết của E. Chavannes là đúng. Trong cuốn Đảo di chí lược 島 夷 志 略 của Uông Đại Uyên 汪 大 淵 đời Nguyên mới xuất bản, ở tiểu mục Giao Chỉ, người chú giải là Tô Kế Khanh 蘇 繼 廎 đã gạt bỏ tất cả các cách hiểu thô thiển sai lầm coi Giao Chỉ như lãnh thổ thời cổ của Trung Quốc, cũng chia tay với kiểu giải thích võ đoán cho rằng có tên Giao Chỉ là do người Giao Chỉ có hai ngón chân cái quay vào nhau, hoặc thuyết cho rằng người Giao Chỉ khi nằm thường gác chéo hai chân (giao) v.v... Đặc biệt ông đã dẫn công trình của E.Chavannes đã giải mã địa danh 交 趾 (Kiao-Tche) là từ phiên âm của từ tiếng Việt Kẻ Chợ. Thuật ngữ Trung Quốc không gọi là phiên âm mà gọi là “đối âm” 對 音 tức là cách phiên âm âm vị học cổ điển, dùng các chữ đồng âm hoặc cận âm để làm đối âm. Cổ âm tiếng Việt cũng như cổ âm tiếng Hán không có thanh điệu, cho nên cổ âm của Ke Chơ rất giống cổ âm của 交 趾 [keau]. Từ 交 趾 [keau này gần giống với cách phát âm của chữ Hy Lạp Kattigara, còn từ Kesho (tiếng Pháp) là phiên âm trực tiếp: phụ âm “Ch” của tiếng Việt người Pháp quen phiên “sh”.
Việc Tô Kế Khanh dẫn E.Chavannes giải thích lý do và mối liên quan các địa danh Kẻ Chợ > Giao Chỉ > Ke sho > Kattigara là một xác nhận khảo cứu của E.Chavannes là chính xác. Tô Kế Khanh còn cung cấp thêm tư liệu ở xứ sở Thổ Nhĩ Kỳ xa xôi, trong tác phẩm của nhà sử học Rashid-eddin cũng có ghi địa danh Kẻ Chợ với từ phiên âm là Kafchikn. Tô Kế Khanh giải thích lý do tên gọi Kẻ Chợ:
“Từ mấy thế kỷ trước Công nguyên, Kẻ Chợ (Giao Chỉ) đã là một trung tâm mậu dịch ở khu vực Nam Hải (tức biển Đông)... Thời Đông Hán, năm Diên Hy thứ 9 (166 SCN) vua nước Đại Tần (tức nước Do Thái/ Judaea) là An Đôn (Marcus Aurelius, 121-180) sai sứ giả đến Trung Quốc khoảng sau khi Ptolémé đã soạn xong sách Địa lý học (Geography) hơn mười năm, mà nơi lên bộ của đoàn sứ giả ấy vẫn là hải cảng ở Kẻ Chợ (Giao Chỉ). Đến trước đời Đường, Giao Chỉ đích thật là trung tâm mậu dịch chủ yếu của các nước ven biển Nam Hải (tức biển Đông) buôn bán trao đổi hàng hóa với Trung Quốc”[16]
Vì Kẻ Chợ (交 趾 [keau /Ke sho/Kattigara] có nghĩa là một cái chợ lớn, một đại thị trường có vẻ trái ngược với một nơi góc biển âm u lam chướng độc hại vẫn ghi sơ sài trong một vài sử liệu quen thuộc nên nhà nghiên cứu Trung Quốc phải chú thích bổ sung để khẳng định: Cho đến truớc đời Đường Giao Chỉ đích thực là một trung tâm mậu dịch chủ yếu của các nước ven bờ biển Đông buôn bán trao đổi hàng hoá với Trung Quốc. Đoạn chú thích trên cơ bản là thoả đáng, nhưng để chính xác hơn tôi thấy cần phải bổ sung: Kẻ Chợ không chỉ là một trung tâm mậu dịch chủ yếu của các nước ven biển Nam Hải mà còn là một thương cảng quốc tế quan trọng nữa:
Bộ Lịch sử Việt Nam đã nêu sự kiện năm 284 lái buôn La Mã đã vào Giao Chỉ mua 3 vạn tờ giấy làm quà tặng cho vua Tấn. Nhưng các tác giả chú ý hơn vai trò giao thương hàng hải của Giao Chỉ đối với Trung Quốc đời Đường: thuyền buôn và sứ giả các nước Nam á (Ấn Độ), Tây Á (Iran), Địa Trung Hải (La Mã) v.v…muốn đến Trung Quốc đều phải “đi theo con đường Giao Chỉ”. Giao chỉ không những là hải cảng tốt cho thuyền tàu dừng lại tiếp lương thực, nước ngọt, tránh bão tố v.v…, mà còn là vì Giao Chỉ có rất nhiều sản phẩm quý như ngà voi, sừng tê, đồi mồi, ngọc trai, gia vị (hồ tiêu), hương liệu (quý nhất là trầm hương, kỳ nam) [17] v.v…. Tiếc là các tác giả chưa đi sâu để thấy vai trò trung tâm thương mại của Giao Chỉ từ đầu và cả từ rất lâu trước Công Nguyên.
Gần đây nhân chuyên đề khảo cứu con đường tơ lụa quốc tế, nhiều tác giả phương Tây như G. R. G. Worcester đã nhận xét: vùng vịnh Bắc Bộ, Kẻ Chợ (Hà Nội) “có thể đã có những ảnh hưởng qua giao tiếp đường biển rất sớm sủa với dân Địa Trung Hải, vì người ta tin rằng những thương gia Phoenicia trên hải trình tìm kiếm "đường tơ lụa", đã tới Đông Dương vào năm 650 TCN"[18]. Đó là vào thời nuớc Văn Lang của các vua Hùng ở nước ta.
Không những gắn Giao Chỉ với giao thương đời Đường, trước đây một cách mơ hồ chúng ta thường gắn thương mại (buôn bán) với kinh tế hàng hoá, với sự ra đời của chủ nghĩa Tư bản. Nền kinh tế hàng hoá không phải mới có từ thế kỷ 16 -17 với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Các quốc gia cổ đại như Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ v.v… đều có những trung tâm thương mại sầm uất. Chỉ là đến thế kỷ 16-17 trên thé giới mới có các nền kinh tế hàng hoá phát triển đặc biệt mạnh mẽ, gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Có thể chính với tư duy này khiến người ta hiểu lầm rằng tên gọi Kẻ Chợ chỉ là do người Tây phương gọi kinh đô Thăng Long của ta, mà cũng hạn chế ở thời gian khoảng thế kỷ 17-18 mà thôi!
Trong khi đó sử gia phương Tây có cách nhìn toàn diện hơn, khớp hợp với các cứ liệu như tôi đã dẫn ra ở trên. Chẳng hạn G.R.G.Worcester nhận xét Giao Chỉ (vùng Hà Nội) “...có thể đã có những ảnh hưởng qua giao tiếp đường biển rất sớm sủa với dân Địa Trung Hải, vì người ta tin rằng những thương gia Phoenicia trên hải trình tìm kiếm "đường tơ lụa”, đã tới Đông Dương vào năm 650 TTL”. Chú giải thêm của người phân tích: “Vào thời đó, nước Văn Lang của chúng ta đang lúc thịnh thời và do các vua Hùng (2879-258.TCN) trị vì.”
Tham luận của tôi đến đây đã trình bày không chỉ về một miền đất Kinh kỳ mà là cả một đất nước KẺ CHỢ tồn tại từ đầu và cả trước Công nguyên nhiều năm mà người nước ngoài dịch tên là Giao Chỉ quốc, Késho, Kattigara,Kafchikn v.v…Chút đóng góp của tôi chỉ ở một tư liệu khẳng định sự tồn tại của địa danh Kẻ Chợ ở thế kỷ 14-15, phần còn lại chỉ giới thiệu khảo cứu của một số nhà nghiên cứu có danh tiếng. Những khảo cứu ấy thật rất có ý nghĩa cho việc nghiên cứu lịch sử nước ta. Có điều là những ý kiến như vậy rất rải rác, lại bị lớp bụi thời gian cả ngàn năm che lấp, chứ không hẳn bày sẵn trên các trang chữ lộ thiên. Cái gì giữ lại quá lâu đời cũng thành ra có vẻ quê mùa, cái tên gọi Kẻ Chợ cũng như thế chăng? Nhưng ai mà dám bảo rằng hồi xưa ấy lại còn có một lớp từ vựng nào “sang trọng” hơn? Vả lại không ít người có thiên kiến sôvanh, không dễ gì để họ phải thừa nhận Kẻ Chợ (Giao Chỉ) là một trung tâm mậu dịch quốc tế sầm uất bên bờ biển Đông hồi đầu Công nguyên, thì biết đâu cái từ Kẻ Chợ ấy đương thời là một địa danh rất sang trọng hấp dẫn. Người Kẻ Chợ tức là dân tộc Kinh chúng ta đấy! Viết đến đây tôi nhớ đến Bình Nguyên Lộc: Ông đã vào sâu trong rừng Trường Sơn, sang cả bên Lào để tiếp cận, tìm hiểu một bộ tộc có tên là Kha Lá Vàng. Bộ tộc này sống di cư, chặt cây dựng lán làm nhà, khi lá đổ vàng lại ra đi. Nhận thấy họ có nhiều đặc điểm ăn ở giống người kinh, ông phỏng đoán họ là hậu duệ của người Lạc (Lạc Việt), vì không muốn bị Hán hoá nên phải lánh vào rừng sâu. Đặc biệt là những người trong bộ tộc ấy còn giữ được ký ức về việc tổ tiên họ xa xưa chỉ tiêu dùng toàn một thứ tiền vàng… Uớc gì nay mai cả nước ta sẽ trở thành cả một thị trường hiện đại thịnh vượng mà mỗi người dân đều có thể cầm nắm được những đồng tiền vàng như người KẺ CHỢ xưa kia.
Nhân Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long –Hà Nội, xin mượn lời của CNNÂ để khánh chúc: BANG KỲ KẺ CHỢ KHOẺ BỀN MUÔN THU!
TS Ngô Đức Thọ
Chú thích
[1] “Kẻ chợ”- dấu tích ngôn ngữ về một hoạt động phổ biến của đất Kinh kì.http:// thanglong.chinh phu.vn/Home.27/02/2010 | 17:09:00
[2] Xem: Ngô Đức Tho, Thông tin mới nhất về Chỉ nam ngọc âm. Hội thảo quốc tế về chữ Nôm. Hà Nội, 11-2004. Kỷ yếu: Cũng xem:www.tapchithoidai.org/ThoiDai5/200505_NgoDucTho.pdf
[3] Tham khảo ý kiến mới đây của GS Nguyễn Ngọc Bích về kết quả khảo cứu niên đại CNNÂ của Ngô Đức Thọ: “ Vấn đề xem chừng chưa được giải quyết cho đến khi ông Ngô Đức Thọ, một chuyên gia về “chữ huý,” trong một bài thuyết trình đọc tại Hội nghị quốctế về Nôm họp ở Hà nội cách đây hơn ba năm (hai ngày 13 và 14 tháng 11, 2004), chứng minh được một cách khá thuyết phục rằng đây là một tác phẩm có từ đời nhà Hồ (1400-1407). Năm Tân tỵ mà ta thấy được ghi trong bài tựa, do đó, chỉ có thể là năm 1401, và như vậy cuốn sách là đương thời với thơ quốc âm Nguyễn Trãi, và điều này giải thích được một số đặc điểm mà ta sẽ không thể hiểu được nếu cho nó một niên đại chậm muộn hơn nhiều…) http://www.vietthuc.org/?p=2691.
[4] PGS.TS Nguyễn Lân Cường môt chuyên gia khảo cổ nổi tiếng mới đây cũng còn viết thế! (“ …Khi đường trơn ngón chân phải choãi ra để chống trơn, từ đó thành Chân Giao Chỉ”. Đi tìm bàn chân Giao Chỉ, http://www.xaluan.com/modules.php? name= News&file =article&si
[5] Trước vua Nghiêu theo truyền thuyết có 6 vua khác, nhưng chỉ là truyền thuyết, chỉ từ Đế Nghiêu mới tính là lịch sử vì có sách Nghiêu điển.
[6] Việc này khi dịch chú Toàn thư (NK1-8b) chúng tôi đã có chú thích nêu rõ người chú của nguyên bản căn cứ theo chú thích của Hán thư (Q.28 Hạ, tr.11a) nói: “quận Nhật Nam tức là Tượng quận thời Tần”. Thuyết này từ cuối thế kỷ XIX đã bị nhiều học giả bác bỏ, bởi vì ngay trong Hán thư, Bản kỷ Q.7,tr.9a đã nói rõ: năm Nguyên Phượng thứ 5 (76 TCN) đời Hán Chiêu đế đã bãi bỏ Tượng quận, chia đất vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha”. Quận Uất Lâm nay là đất Quảng Tây, quận Tường Kha gồm tây Quảng Tây và nam Quý Châu (x. Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Đức Thọ dịch chú, Nxb KHXH, 1993. T.I tr.138)
[7] Vấn đề nhà Triệu có nhiều khía canh cần làm sáng tỏ, bài này không bàn đến.
[8] Như cuốn Hoàng Lê nhất thống chí, đúng tên nguyên bản là An Nam nhất thống chí.
[9] http://baike.baidu.com/view/229607.htm
[10] http://so. hudong.com/search.do?so= doc&isFrom= intoDoc&q=%.
[11] Chân thành cám ơn Wikipedia và Google đã đưa lên mạng toàn cầu nhiều tài liệu quý báu, trong đó có cuốn Geographia của Claudius Ptolemaeus.
[12] Vũ Hữu San, Tài-liệu Pháp-lý về "Chủ-quyền Việt-Nam trên các quần-đảo Hoàng-Sa Trường-Sa" sau năm 1974. Mar 28, 2004. http://www.viet-studies.info/kinhte/HoangSa-TruongSa-_VuHuuSan.pdf.
[13] Vũ Hữu San, Hàng Hải Nước Việt Xưa.http://www.lyhocdongphuong.org.vn/ News/03/ Hang-Hai-Nuoc-Viet-Xua-Phan-1/8/1945/
[14] Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Chương V.
[15] Edouard Chavannes. Memoire - Réligieux éminents. Paris, Ernest Leroux, Éditeur, 1894. Cám ơn chị Mai Anh chuyên viên của EFEO đã giúp tôi tìm kiếm cuốn sách quý này.
[16] Uông Đại Uyên 汪大淵 , Đảo di chí lược 島夷志略. Tô Kê Khanh 蘇繼廎 hiệu thích. (Trung ngoại giao thông sử tùng thư). Bắc Kinh, Trung Hoa thư cục, 2000. tr.52-53.
[17] Lịch sử Việt Nam. T.1, NXb.KHXH, 1971, tr.98; 99-100.
[18] G. R. G. Worcester The Junks & Sampans of the Yangtze. Dẫn theo Vũ Hữu San, TL đã dẫn.