Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Lịch sử > Trung đại > Saigon - Chợ Lớn từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19 (P2)

Saigon - Chợ Lớn từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19 (P2)

Chủ Nhật 14, Tháng Mười Một 2010, bởi CTV


Ảnh bên: Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt

4. Sài Gòn dưới quan sát và nhận xét của John White (1819-1823)


Thế thì đời sống ở Sài Gòn trong giai đoạn này ra sao? Trước hết ta hãy xem mô tả Sài Gòn và cuộc sống ở đây vào các năm 1819-1823 qua quan sát của thuyền trưởng Mỹ John White, người đã đến và sống tại đây một thời gian. Với mục đích tìm hiểu xứ Đàng Trong, liên hệ ngoại giao để giao thương buôn bán, trung úy hải quân Mỹ John White, năm 1819 trong chuyến viếng thăm Sài Gòn trên tàu Franklin, từ cảng Salem tiểu bang Massachuset, đã cho ta những thông tin giá trị. Salem là một thương cảng sầm uất có tàu buôn và đánh cá voi đi khắp thế giới trong thế kỷ 17-19. Trước khi viếng Sài Gòn và Đàng Trong, ông đã có đọc sách nói về Đàng Trong của John Barrow. Với những kinh nghiệm và chứng kiến ở Sài Gòn trong nhiều tháng sống ở đấy, ông đã viết lại một hồi ký được giữ trong kho lưu trữ của hội "Hội hàng hải Đông Ấn của Salem" (East India Marine Society of Salem). Nhưng các bạn của ông khi đọc, họ thấy có những thông tin hữu ích, nên đã in thành sách.

Hành trình của tàu Franklin đi từ Salem ngày 2 tháng 1-1819 là đi xuống Ba Tây, Nam Mỹ, vượt Đại Tây Dương đến mũi Hảo Vọng để đến Batavia (Nam Dương) thuộc Hà Lan rồi đến Nam Kỳ Đàng Trong. Sau Côn Đảo, Vũng Tàu, đến Cần Giờ; nhưng ở Cần Giờ tàu Franklin gặp khó khăn phải ở đến 5 ngày đợi lấy giấy phép vào Sài Gòn. Khó khăn nhất là từ quan địa phương quấy nhiễu lên tàu lấy đồ, đòi hỏi đồ tặng như rượu, tiền, quà cáp... Nghĩ là tàu phải chờ đợi rất lâu trước khi xin được phép vào cảng Sài Gòn. ông bỏ ra Đà Nẵng (Turon) hy vọng đến Huế để xin được phép. Nhưng khi tới Đà Nẵng, qua tiếp xúc với các quan lại, ông được biết nhà vua đã ra Bắc Hà và qua sự khó khăn về ngôn ngữ truyền thông, ông quyết định đi Phi Luật Tân với hy vọng tìm người thông hiểu tiếng Onam (Cochinchina, Đàng Trong) rồi sẽ trở lại Đàng Trong.

Ở Manila, ông cũng ngạc nhiên là hầu như không ai biết về xứ Đàng Trong, một vương quốc cạnh đấy. Ông chỉ gặp 3 người có chút kiến thức: một người Đan Mạch, đã sống ở Sài Gòn vài năm nhưng vì đã lâu rồi nên không còn nhớ gì nhiều, một thủy thủ già Tây Ban Nha đã từng buôn bán ở sông Cam Bốt (các sông ở Nam Kỳ như Cửu Long) và có thấy người Đàng Trong và nghe nói vê xứ Đàng Trong. Và một ông cha, giáo sĩ, đã từng ở địa phận Huế một thời gian ngắn trong thời nội chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh, và đã từ đấy thoát về đây. Cả ba không ai biết tiếng Onam và không biết gì nhiều về đất nước này hay cho thông tin hữu ích về xứ sở này. Tuy nhiên họ đều cho biết ý kiến không luận lợi về đặc tính của chính phủ và người dân Onam. Những khó khăn và nản chí mà chính ông đã gặp khi đến Đàng Trong ở Cần Giờ và Đà Nẵng dường như trở thành hoàn toàn khi nghe những người này nói về Đàng Trong. Ông sửa soạn đến Canton (Quảng Đông) lấy hàng thay vì lấy ở Manila trên đường về Mỹ thì xảy ra một sự kiện may mắn hi hữu và không ngờ đã làm ý nghĩ viếng Đàng Trong của ông quay trở lại. Số là khi tàu ông được coi là tàu Mỹ đầu tiên đến Cần Giờ, mong đi ngược dòng sông Đồng Nai viếng Sài Gòn nhưng đã phải ra đi Đà Nẵng, thì một tàu Mỹ khác vài ngày sau tình cờ cũng đến với cùng mục đích. Tàu này là tàu Marmion từ Boston, một cảng gần Salem, do thuyền trưởng Oliver Blanchard điều khiển. Lúc bấy giờ, vị phó vương (tổng trấn Lê Văn Duyệt) nhận được tin là tàu của John White đã có mặt ở sông, nên ông đã gởi một người thông dịch bản xứ, biết nói tiếng Bồ Đào Nha phương đông, đến Cần Giờ với mục đích là truyền thông được với bất cứ tàu nào sau đó đến.

Đúng vào dịp đó, tàu Marmion đến, trên tàu có một thư ký và thủy thủ nói được tiếng Bồ Đào Nha. Sau một vài khó khăn, thuyền trưởng Blanchard được phép vào Sài Gòn trên tàu của làng Cần Giờ. Nhưng ông không thể mua bán gì được vì số tiền vàng (doubloon) Tây Ban Nha mà thuyền mang theo không được người Onam biết mặc dầu chúng có giá trị hơn tiền dollar Tây Ban Nha. Một vài người bản xứ chịu nhận tiền vàng nhưng với giá rẻ. Thuyền trưởng quyết định không vào cảng để buôn bán vì sẽ trả giá cắt cổ tiền thuế, tặng phẩm, quà cáp. Người Onam bảo đảm với Blanchard là giá đường và các hàng khác rất rẻ, và nếu tàu có mang tiền dollar Tây Ban Nha thì sẽ có hàng ngay lập tức. Nhưng vì chỉ có tiền vàng Tây Ban Nha nên tàu Marmion quyết định đi Manilla để mua hàng thay vì ở Sài Gòn.

Thuyền trưởng Blanchard bị bệnh và mất khi tàu vừa rời Cần Giờ. Ở Manilla thuyền trưởng John White tàu Franklin gặp người thay thế Blanchard trên tàu Marmion và bàn tính cùng đi trở lại Sài Gòn, sau khi tiền vàng trên tàu Marmion được đổi qua dollar Tây Ban Nha ở Manila.

Trở lại Vũng Tàu và Cần Giờ lần này ở cửa sông ông thấy nhiều cá heo sông sống ở nước ngọt (fresh water river dolphin) màu hồng (ngày nay như ta biết không còn cá heo sông ở sông Sài Gòn - Đồng Nai nữa, chỉ còn một ít gần tuyệt chủng ở sông Cửu Long), sau vài ngày chờ đợi cuối cùng được phép cho vào cảng buôn bán nhưng với điều kiện là ngoài tiền thuế phải trả do vua chỉ định, phải có tặng phẩm như là thông lệ bắt buộc (gọi là sagouetes, quà triều cống) cho ngài phó vương và các quan lại. Mặc dầu chấp nhận nhưng White muốn gợi lên vấn đề triều cống khi gặp phó vương vì ông không nghĩ đó là thông lệ tốt cho sự buôn bán có lợi cho cả hai bên.

Một chiến thuyền nhỏ của thủy quân nhà Nguyễn

Sau bao nhiêu thăng trầm, tàu Franklin và Marmion cuối cùng cũng vào đến cảng Sài Gòn. John White và đoàn tùy tùng lên bờ đi qua chợ giữa sự tò mò, bu quanh của dân cư, ồn ào đủ loại chó chạy rông, vào thành qua cửa nam để diện kiến vị phó tổng trấn (lúc đó là Huỳnh Công Lý). Ông mô tả như sau, sau khi qua khỏi khu chợ:
"Ở cuối đường đầu tiên, tuy vậy, khung cảnh trở thành dễ chịu hơn. Con đường chúng tôi đi khúc khuỷu che khuất và hai bên đường là hai tường đá chắn, dài khoảng một phần tư dặm qua một dốc ngược vừa phải, che phủ bởi cây xanh, chúng tôi chẳng bao lâu đến một cầu đá, lúc mà tiện dân, hai chân và bốn chân (chỉ chó rông) đã xa chúng tôi; cầu bằng đá và đất, băng ngang qua một hào nước sâu và rộng, dẫn tới cửa đông nam của thành, hay đúng hơn một thành phố quân sự; vì tường của thành, bằng đá và đất, cao khoảng 20 feet (8m), tường dầy vô cùng, bao quanh khu hình tứ giác dài khoảng 3 phần tư dặm mỗi cạnh. Nơi đây là nơi vị phó vương (tổng trấn) và các lãnh binh cư ngụ, và có rất nhiều doanh trại rộng tiện nghi, đủ chứa 50.000 binh lính. Dinh hoàng gia ở ngay giữa thành, trên khu đất xanh tươi đẹp rộng khoảng 8 acres (mẫu Anh = 0,4 hecta) bao quanh bởi hàng rào cọc cao."

Dinh hoàng gia xây bằng gạch, nền gạch trên mặt đất khoảng 6 feet (2.5m) được dành cho vua khi đến ngự. Dinh bỏ trống vì vua Gia Long đã chuyển về Huế, nên dinh được dùng làm kho dữ liệu chứa giấy tờ và dấu ấn hoàng gia.

Đi qua cửa vào dinh tổng trấn, trong dinh, trên bục gỗ quí, giống như gỗ hoàng dương bóng loáng như gương là vị phó tổng trấn.
"Trên bệ cao này, vị phó tổng trấn ngồi chân xếp hai bên kiểu người Á, và vuốt râu trắng lưa thưa; ông là một người già ốm, da nhăn, rất thận trọng mà điệu bộ, mặc dù có nở nụ cười không đáng tin cậy, không cho ta thấy một điều gì công chính và thành thật. Trên các bục hai bên là các quan, lãnh binh đủ chức tước được ngồi xa hay gần nhân vật oai phong đại diện đất nước tùy theo chức hạng."

Trong thành về phía đông bắc có 6 toà nhà lớn, bao bọc bởi hàng rào cọc, mỗi toà nhà dài khoảng 120 feet chiều dài và 80 feet chiều ngang. Đây là những nhà kho chứa lương thực, vũ khí, đạn dược… Rải rác trong thành là các nhóm nhà cho binh sĩ giữa những cây vùng nhiệt đới trông rất đẹp mắt, trong đó có vài bụi cây hương hải ly (castor). Nhiều đường đi rất dễ chịu với hai bên thường trồng các cây bông sứ (palmaria) khi nở hoa trắng vào tháng 10 và tháng 11 toả hương thơm xa khắp nơi.


Thành Quy (Gia Định thành) vẽ bởi Jean-Marie Dayot năm 1799. M. Dayot (tên Việt là Đồng Nai) là một trong những sĩ quan hải quân Pháp [như người em Felix Dayot, Jean-Baptiste Chaigneau (Nguyễn Văn Thăng), Phillipe Vannier (Lê Văn Lang hay Nguyễn Văn Long), Victor Olivier (Ông Tín)] đã giúp Nguyễn Ánh trang bị hải quân và chỉ huy hai tàu Dong-nai và Prince de Cochinchine tham dự đánh Tây Sơn. J. M. Dayot bị đắm tàu chết ở vịnh Bắc Bộ năm 1809.

John White cho biết dân số Sài Gòn là 180.000 trong đó có khoảng 10 ngàn người Hoa. Số liệu này ông cho biết là từ nguồn thông tin xác đáng và chính thức mà ông nhận được từ cha Joseph và chính từ vị tổng trấn Gia định thành Lê Văn Duyệt khi tổng trấn trở lại Sài Gòn từ Huế không lâu sau khi John White đến Sài Gòn. Ở phía tây của thành phố là hai chùa người Hoa,. Còn chùa người Việt (Onamese, chữ dùng của John White chỉ người Việt và Onam - xứ sở Việt Đàng Trong) ở rải rác khắp thành phố. Ở chính giữa thành phố có một nhà thờ do hai giáo sĩ Ý cai quản, họ có vài học trò và nhiều người theo đạo. Theo các giáo sĩ và tổng trấn Gia định thành thì ở Nam Kỳ (đây chỉ cả miền trung và nam Việt nam trừ Đông kinh miền bắc) tín đồ công giáo có 70 ngàn và ở địa phận Đồng Nai là 16 ngàn.

Sau khi diện kiến vị phó tổng trấn, đoàn John White viếng chợ ngoài thành, đi xem đường phố. Ông mô tả chi tiết sinh hoạt, con người đủ loại tầng lớp trong xã hội, cũng như lần trước đi đâu đoàn của ông cũng bị mọi người bu quanh, thích thú tò mò sờ mó đến nỗi khi về thuyền, quần áo mọi người tơi tả.

Trong sách John White nói rõ gạo là sản phẩm chiến lược quan trọng, không ai được xuất cảng, người đi tàu xa chỉ được cung cấp đúng khẩu phần cho thủy thủ đoàn trong thời gian đi mà thôi. Ông thấy một tàu kiểu Siam của người bản xứ trên cạn gần sông, và được biết là thuyền trưởng và nhân viên đã bị tử hình và thủy thủ đoàn bị giam vì đã vi phạm điều luật xuất cảng gạo này. Ông cũng viếng thăm khu đóng tàu ở phía gần sông Sài Gòn và rạch Thị Nghè, ông thán phục kỹ thuật đóng tàu và chất lượng của gỗ quí làm tàu từ nguồn tài nguyên trù phú ở Đàng Trong.

Ông cho biết thành phố Sài Gòn lúc đầu là ở phía cực tây của địa điểm gần thành Sài Gòn. Tức là Chợ Lớn thành lập trước và là Sài Gòn xưa. Vì thế phía Chợ Lớn có những kiến trúc cao tốt đặc sắc hơn. Một vài con đường ở Chợ Lớn được lót bằng đá phiến; các bến tàu làm bằng gạch dài gần một dặm dọc theo sông. Thành Sài Gòn và xưởng hải quân, trừ một vài chòi cho các thợ máy, là duy nhất có cư ngụ ở phần phía đông; nhưng sau khi chiến tranh Nguyễn Ánh - Tây Sơn chấm dứt, dân cư phát triển nhanh chóng về phía đông cho đến khi cả hai nơi trở thành một thành phố, lên đến bên kia rạch Thị Nghè bao bọc thành Sài Gòn và công xưởng hải quân.

Cũng theo John White ở Chợ Lớn có một con kênh vừa được đào:
"Ở phía tây của thành phố, con sông hay kênh vừa được đào (thật ra chưa hoàn tất khi chúng tôi đến) dài 23 dặm Anh, nối với một nhánh của sông Cam Bốt, từ đó thông thương qua đường thủy với Cam Bốt, mà người Việt gọi là Cou-maigne (Cao Miên). Kênh này sâu 12 feet (5m), rộng 80 feet (32m), được đào xuyên qua rừng đầm lầy lớn bao la, trong vòng 6 tuần. Hai mươi sáu ngàn dân công, ngày và đêm đào công trình vĩ đại này, với 7 ngàn người chết vì cực nhọc hay bệnh. Hai bên bờ kênh này đã đựợc trồng các cây hoa bông sứ, là cây mà người Việt rất thích."

Kênh này chính là kênh An Thông Hà do Huỳnh Công Lý đứng ra huy động xây theo lệnh vua Gia Long. An Thông Hà, thay thế Kinh Ruột ngựa (Mã Trường Giang) đã bị cạn lấp, nối rạch Tàu Hủ xuống sông Rạch Cát và từ đó xuống Cần Giuộc, Tân An và sông Vàm Cỏ và các tỉnh miền Tây.

Cuối cùng sau khi tổng trấn Lê Văn Duyệt hoàn thành công tác ở Huế (năm sau 1820 thì vua Gia Long mất) trở về Sài Gòn, John White cũng được diện kiến với Lê Văn Duyệt trong dịp bá quan văn võ nghênh đón ông tổng trấn và ngày hôm sau tại chính dinh thự của ngài tổng trấn trong bữa tiếp chuyện và khoản đãi dành riêng cho phái đoàn ông John White.

“…Đúng thời điểm hẹn, chúng tôi đến dinh phó vương, ngài phó vương (vice-roy, chỉ Lê Văn Duyệt) đã có chủ đích trong dịp này không tiếp khách bản xứ, chỉ có những nhân viên thân cận giúp việc trong dinh ông, độ khoảng 40 người và 4 thông dịch viên của chính quyền là Antonio, Mariano, Joseph và Vicente, họ là người bản xứ theo đạo. Chúng tôi được tiếp đón rất thân tình và chi li. Ngài phó vương lúc này đã bỏ qua tất cả những “hãnh diện, nghi lễ, nghi thức” của chức vụ ngài, ngài nói chuyện thoải mái tự do với chúng tôi; và sự háo hức tò mò của ngài, sự chọn lựa sáng suốt đúng đắn các đề tài trong sự tìm hiểu thẩm tra, chứng tỏ ông có một đầu óc mở rộng, thúc đẩy bởi một sự khao khát không nguôi về tri thức và thông tin; và những lời bình chín chắn của ông trong nhiều đề tài đã thuyết phục chúng tôi về khả năng thiên tư cao độ của ông. Chiến tranh, chính trị, tôn giáo, phong tục, cách xử sự của các nước Âu châu là những đề tài mà ông rất chú trọng; và khi nghe là tôi từng phục vụ trong hải quân ở nước tôi, ông đặc biệt tập trung tìm hiểu hỏi tôi về các chiến thuật hải quân và chiến trận hàng hải. Khi sự tò mò của ông đã được thoả mãn về các chi tiết này, ông vui vẻ khen ngợi sự thông minh, kỹ năng và năng lực của người “Olan” (Tây dương), và với một cảm xúc buồn tủi, ông lấy làm tiếc phàn nàn về tình trạng còn thiếu văn minh của nước ông.

Sau hai giờ đàm đạo rất thích thú, ông thông báo chúng tôi là có một buổi tiệc giải lao đãi chúng tôi theo kiểu Âu, dưới sự điều hành của Antonio, thông dịch viên trước đây đã ở Macao. Trên một bàn nhỏ ở giữa sảnh đường có đầy các dĩa, chén chứa đủ loại thức ăn Á châu, gà, vịt luộc, cơm, khoai, khoai lang, heo nướng, cá, bánh và cá giầm muối… Antonio đã tìm được ở đâu đó, có thể từ Pasqual, hai con dao và một nĩa cũ, để chúng tôi chia nhau dùng để cắt thịt, và sau đó dùng các lông nhím để cắm đồ ăn và bỏ vào miệng.

Ngay lúc đầu buổi tiệc, ngài phó vương đã thân tình chăm sóc chúng tôi, cầm chai rượu mà chúng tôi đã tặng ngài trong một tay còn tay kia cầm một ly, ông mời chúng tôi uống không ngưng nghỉ cho đến khi chúng tôi van xin được tha, lúc đó ông mới cho phép chúng tôi nghỉ mệt khỏi sự hiếu khách nhiệt thành, nhưng cản trở của ông. Tuy nhiên, vì sự băn khoăn muốn cho chúng tôi được tận hưởng tất cả những cao lương thú vui trước mắt chúng tôi, ông đã tiếp tục ép chúng tôi ăn uống, và ông đã tự tay cầm đưa vào miệng chúng tôi đủ loại thức ăn, cá, gà, cơm, cơm chiên, cà ri, thịt heo, khoai, kẹo bi, v.v… không cần thứ tự, cho đến khi mắt chúng tôi bắt đầu lồi ra khỏi tròng, và nước mắt chảy liên tục xuống má chúng tôi."

Sự hiếu khách, luôn mong học hỏi, phát triển hiện đại đất nước của Lê Văn Duyệt lại là tương phản với hầu hết những quan lại, nhân viên viên chính quyền dưới quyền ông ở Gia Định.

John White đã kể lại các chi tiết về hành xử của quan lại, nhân viên cũng không khác như tình hình ngày nay là bao. Tàu Franklin và Marmion đậu tại cảng và phải trả thuế tính theo trọng tải, được ước lượng qua chiều ngang gần mũi tàu. Tàu Franklin được tính ngang gần mũi tàu 17.6 covids (1 covid khoảng 40cm) hay 176 tấc (đơn vị thời đó) với giá 160 quan [1 quan là 10 tiền, 1 tiền là 60 đồng, đồng làm bằng kẽm (zinc) có lỗ hổng ở giữa để tiện cho việc xâu lại thành bó. Ngoài ra còn có “bạc đính” tức thỏi bạc lớn bằng ngón tay út và “bạc nén” lớn nặng 375g có giá trị 16 tiền (piaster) mexicaine, mỗi tiền mexicaine là 7 quan] (29).

Giá trị 1 quan tương đương với 50 cent dollar Tây Ban Nha (Spanish dollar). John White than về chi phí tặng phẩm cho quan lại vua chúa, quà cáp cho đủ loại nhân viên từ thuế vụ đến lãnh bình. Riêng thuế lên đến 2700 dollars chỉ riêng tàu Franklin. Vào 9 giờ sáng, trước khi đo đạc để trả thuế, nhân viên thuế đòi phải có rượu uống trước. Sau khi thâu thuế, nhân viên thuế vụ đòi hỏi được đãi ăn, nhậu. Đến 12 giờ trưa, sau khi đã say sưa họ ra về, để lại cho thủy thủ đoàn lau rửa dọn dẹp, mà khó rửa nhất là các bãi nước trầu đỏ ghê tởm mà họ phun từ miệng xuống đầy sàn tàu.

Những người đầu tiên muốn tiếp xúc và buôn bán hàng hoá với ông là những thương gia phụ nữ, ông gặp họ khi ông đến nhà của một người Tagal (gốc Phi Luật Tân, đảo Luzon) nói tiếng Tây Ban Nha tên là Pasqual định cư ở Sài Gòn khi lấy một người Việt. Pasqual trước đó đã lên tàu Franklin mời đoàn của ông John White đến thăm nhà. John White cho biết đa số các thương gia môi giới hàng là phụ nữ và họ giỏi hơn đàn ông.

Trong những lần thương lượng với các nhà buôn để mua đường, ông đã gặp rất nhiều khó khăn về sự thiếu thành thật. Các nhà buôn hôm nay đồng ý giá này nhưng không lâu sau đó thấy có cơ hội lại đưa giá cao hơn nhiều, hứa sẽ có mẫu hàng nhưng không có, luôn luôn tìm cách bóp chẹt...

Ông đã gặp phó tổng trấn (chỉ Huỳnh Công Lý) xin giúp để nhanh chóng làm việc, nhưng sau nhiều lần tiếp thì ông mới biết là chính vị phó tổng trấn đã thông đồng và cùng làm chung với các nhà buôn để bắt chẹt, lừa dối và tống tiền gây giá cao so với giá ở chợ, cùng với các quan chức với các thủ tục quan liêu làm tiền bằng mọi cách. Khi phái đoàn John White cho ý kiến về tư cách của các nhà buôn:

"Có thể ông ấy cảm thấy bị đụng chạm nao núng; nhưng làm sao mà chúng tôi có thể biết, hay đoán là, ngài ’Oung-quan tung keon’ (ông quan tổng trấn), người giữ chức vị thứ hai ở Đồng Nai, và đã một lần có vinh dự đại diện cho nhà vua oai nghiêm ở triều đình Bắc Kinh (đây là sự kiến có thật), thực ra là một người nhỏ mọn buôn đường và các hàng khác, thông đồng với các con buôn lặt vặt tầm thường khác để hưởng lợi bằng sự lừa gạt và tống tiền những người nước ngoài, đã dùng hết sức của mình để đến từ xa mong đáp lại những thuận lợi và vui thú trong cuộc trao đổi thương mại thân thiện với họ ?...

Sau bữa ăn ngắn, ông ta đứng lên khỏi ghế và trở lại bục ngồi, và ngay lập tức hỏi là chúng tôi có những đồ gì đặc sắc lạ không để cho ông xem; chúng tôi trả lời là không có, vì biết được hậu ý của ông ta; nhưng một trong những người thông ngôn (những người này, nói ra, đều là đểu cáng không biết xấu hổ) nói với ông ta là nó đã thấy trong phòng tôi một khẩu súng săn hai nòng, nên bắt buộc tôi phải đưa ra; sau khi chiêm nghiệm thán phục tài nghệ khéo léo của cây súng; ông ta tỏ ý hạ cố muốn mượn cho chuyến đi săn ngày mai. Tôi đành phải tuân theo ước muốn một cách miễn cưỡng hết sức của tôi; và may mắn đây là cơ hội mà tôi rời nó cuối cùng, không có cơ hội nào khác sau này, bởi vì tôi không bao giờ thấy nó lại nữa, ngay cả những cố gắng sau này trong lúc còn ở đây, tôi cũng không thấy một thoáng của nó, ngài phó tổng trấn tự cho rằng đây là một món quà."

Ngày hôm sau, đoàn đến gặp phó tổng trấn về thủ tục trả thuế tàu đậu tính theo tiền Việt. Đoàn muốn trả tiền thuế bằng đô la Tây Ban Nha theo giá thị trường ở chợ nhưng vị phó tổng trấn bắt là phải trả đô la theo giá chính thức mà xê xích 1 đô la là 18 tiền chính thức so với 19 tiền ở chợ. Đoàn thương lượng tìm cách trả thẳng bằng tiền Việt, cuối cùng vị tổng trấn cũng miễn cưỡng đồng ý. Đoàn ông White ra chợ đổi tiền và xâu vào thành bó trong các bao mang đến ngân khố trả mới biết là họ tìm cách làm khó khăn, đóng cửa, đếm sai gian trá, kéo dài thì giờ và ngay cả ăn cắp... Về nhà trọ mướn thì tối đến bị ném đá liên tục mà hướng là từ phía nhà của vị phó tổng trấn bên kia kênh.

"Sau khi trả thuế, phái đoàn chúng tôi đến gặp phó tổng trấn với mục đích bàn về vấn đề qui luật triều cống. Vị phó tổng trấn tiếp ở nhà trong một phòng lớn có 1 thư viện nhỏ, một trường kỷ bên cạnh một bục nhỏ mà vị tổng trấn ngồi và một vài đồ đạc kiểu Trung Hoa. Ở đây không có lính hậu vệ mà chỉ có hai cậu bé giúp việc, một cậu đứng quạt cho vị phó tổng trấn. Ông phó tổng trấn tiếp khách ân cần mời phái đoàn ngồi với nước trà, trầu và đồ ngọt. Sau khi trả lời thoả mãn sự tò mò của ông qua các câu hỏi về Âu châu mà tổng trấn cũng coi Mỹ như là thuộc châu này (gọi chung không phân biệt là người ‘Olan’), chúng tôi nêu vấn đề mong muốn không có triều cống. Ông cho chúng tôi biết là có một luật cố định và không thể thay đổi của vương quốc về vấn đề này, mà ông không dám bãi bỏ hay tránh được; và ngay cả nếu ông ta muốn nhưng vì có quá nhiều các giới chức sắc khác cũng có can dự, nên có cố gắng cũng là vô vọng.

Sau buổi tiếp chuyện khoảng ba phần tư tiếng đồng hồ, lúc chúng tôi đứng lên ra về thì ông nói gì đó với các người thông dịch, muốn chúng tôi ngồi lại. Các thông dịch nói với chúng tôi là tổng trấn sửa soạn gởi người mang thơ đến cho vua, với các giấy tờ chính thức liên quan đến sự việc chúng tôi đến đây, và muốn biết là chúng tôi có muốn gởi nhà vua quà tặng gì không. Chúng tôi trả lời là có, và biết rằng có một sĩ quan người Pháp đang phục vụ cho vị vua này, chúng tôi xin phép được viết cho vị sĩ quan này. Ông phó tổng trấn chấp nhận ngay. Chúng tôi sau đó ra về húa là sáng sớm mai quà và lá thơ sẽ có sẵn.

Khi chúng tôi trở về tàu, chúng tôi gặp một viên quan quân nhu đi cùng với một viên chức khác; người viên chức này mời chúng tôi đến nhà ông, cũng gần tàu. Sau khi mời chúng tôi nước trà, trầu, etc.., chủ nhà mang ra một chai không chứa mù tạc với hình huy hiệu Vua nước Anh trên tờ nhản hiệu của chai và hàng chữ lớn "Best Durham Mustard" ở phía dưới, và trình thêm một miếng giấy mà trên đó có một phệt dài gì đó. Vệt đó giống như thuốc cao của người bào chế thuốc nhưng màu đen, đã khô không còn mùi hay vị nữa. Cái này họ cho biết là mẫu mà chai này trước đây đã chứa, và hỏi chúng tôi có thứ này trên tàu chúng tôi không. Chúng tôi trả lời là có, và chúng tôi đã mang một vài thứ này để cho vua. nghe vậy, họ rất vui và nói chúng tôi là nhà vua cực kỳ thích thứ này, và đã gói cẩn thận gởi chai không và giấy có hàng mẫu đến từ Huế vài tháng trước như là mẫu để đưa cho người nước ngoài mà nhà vua muốn có hàng như vậy. Đây cũng là mẫu hàng mà họ đã đưa cho chúng tôi hồi ở Đà Nẵng tháng 8 năm ngoái, vì thế khi ở Phi Luật Tân chúng tôi đã mua nhiều hàng này trước khi trở lại Cochinchina. Trở lại tàu, chúng tôi soạn lá thư viết cho ông Vannier, đề đốc của nhà vua ở Huế, nhờ ông đại diện chúng tôi cố gắng thương thảo giảm lượng quà cáp triều cống (sagouète); và trao cho nhà vua bảo kiếm kèm theo bức thơ này.

(chú thích của dịch giả: Vannier và các sĩ quan Pháp như Chaigneau, Dayot theo Gia Long sau khi được Bá Đa Lộc tuyển ở Pondicherry vừa khi cách mạng Pháp bùng nổ. Vannier đã từng tham dự chiến tranh cách mạng giành độc lập ở Mỹ. Sau này, cũng như Chaigneau, làm quan ở Huế dưới triều Gia Long. Cả hai đều có vợ Việt, con trai Chagneau là Đức Chaigneau, tác giả sách “Souvenirs de Hue”. Không lâu sau khi Minh Mạng lên ngôi với chính sách cấm đạo và thù ghét người ngoại quốc, Chaigneau và Vannier gặp nhiều khó khăn. Cuối cùng cả hai mang gia đình hồi hương trở về Pháp)

Sáng ngày mai, những thông dịch viên và vài viên chức đến đòi hỏi và được trao tặng phẩm cho vua. Họ hết sức vui với cái sáng long lanh rất đẹp, và trang trí của lưỡi gươm, và cán gươm lộng lẫy, các câu thốt ra, "Kaa", "Kaa" (chú thích dịch giả: có lẽ là “kìa”, “kìa”) tỏ vẻ thán phục và ngạc nhiên được lặp đi lặp lại nhiều lần. Lá thư gởi ông Vannier sau đó được đưa cho họ cùng với một chục chai mù tạc cho nhà vua, khi họ đi, mà họ chỉ ra đi sau khi đã xin và uống rất nhiều cốc rượu.”

Trong thời gian ở Sài Gòn, đoàn ông White mướn một nhà, do một goá phụ người Việt, vợ một thương gia Bồ ở Macao làm chủ. Nhà ở dọc bờ một con kênh trong Chợ Lớn nơi có nhiều người nước ngoài trú khi họ đến Sài Gòn vì nơi đây có nhiều hàng hoá, kho chứa hàng và nhà buôn. Ông đã đi thăm những kho chứa hàng của người Hoa dọc theo kênh để xem những gì có thể mua được. Đối diện với nhà mướn này bên kia kênh là nhà của vị phó tổng trấn (Huỳnh Công Lý). Ông được biết là khi tổng trấn (Lê Văn Duyệt) ra Huế để trả lời về các vu khống nặc danh là lạm dụng chức quyền, vị tổng trấn thay vì bị khiển trách lại được vua Gia Long an thưởng, trở về an toàn sau khi đã giải bày tình hình.

Trong hồi ký của John White viết về vị tổng trấn (Lê Văn Duyệt) và phó tổng trấn (Huỳnh Công Lý), ta thấy rõ đặc tính, tư cách và tầm nhìn của hai người hoàn toàn khác nhau như một trời một vực. Về chức vụ, Lê Văn Duyệt là tổng trấn và là quan võ, trong khi Huỳnh Công Lý là phó tổng trấn và là quan văn. Lê Văn Duyệt rất chính trực, cai trị nghiêm minh đôi lúc có phần độc đoán. Huỳnh Công Lý rất tham ô, lươn lẹo và hèn nhát. Lê Văn Duyệt hiểu rõ tình hình trong và ngoài nước (ông biết rõ diễn biến tình hình của Napoleon và chính trị ở Âu châu đương thời, hàng hải, khoa học kỹ thuật hiện đại... và thường đàm đạo với những người nước ngoài), mong muốn phát triển và khuyến khích thương mại, thường than phiền về sự yếu kém, suy nghĩ thấp và thiển cận nhưng vẫn tự mãn của người Việt trong khi Huỳnh Công Lý thì lại hoàn toàn ngược lại. Không lạ gì mà sau này Lê Văn Duyệt đã xử tội Huỳnh Công Lý, dù lúc đó Huỳnh Công Lý là cha vợ của vua Minh Mạng.

Qua nhiều thử thách và kinh nghiệm, ông nói về tính cách cá biệt của người Cochinchina trong sự giao dịch buôn bán như sau:
“Họ hoàn toàn dựa vào lòng tin cậy. Luôn muốn gạt và tìm lợi thế trên chúng tôi, sự kiên trì bướng bỉnh cố được hơn bằng cách thay qua đổi lại và bằng các thủ đoạn, mà thật ra họ có thể dễ dàng đạt được bằng sự thoáng mở trong suốt và thoả thuận công bình; những thủ tục, hình thức nhiêu khê trong đủ loại giao dịch thương mại, cho đến những giao dịch tầm thường nhất; sự bất định trong sự đồng ý coi như là sau cùng sau thương lượng (với hy vọng mỏng manh sẽ làm người mua hết kiên nhẫn, và làm người mua phải trả thêm một chút, cũng đủ để làm vô hiệu những qui định hợp đồng bằng miệng), và không có đường khiếu nại, trừ khi có hợp đồng được ghi ra giấy, mà nói ra không bao giờ có được, cho đến khi mọi phương thức được dùng, mọi cách lạm thâu ép buộc được đưa ra và dùng hết sức để lợi hơn một chút ít; những phiền nhiễu này cộng với sự tham lam, không có niềm tin, độc tài, và đặc tính chống ghét thương mại của chính phủ, cho đến khi nào mà các cơ nguyên này vẫn còn, sẽ làm cho Cochinchina (xứ Đàng Trong) là một nước ít được ưa thích nhất cho những nhà thám hiểm thương mại. Những lý do này cũng làm cho người Nhật từ bỏ thương mại: họ đã đẩy những người Bồ Đào Nha ở Macao ra khỏi xứ, chuyển thương mại qua những kênh khác, và nhanh chóng hàng năm giảm thông thương với Trung Quốc và Siam. Những người có thiện ý, những nhà doanh nghiệp kỹ nghệ, và nói chung cả thế giới văn minh, có thể thấy tình trạng khốn khổ hiện nay của một đất nước đẹp trời cho này, không có gì hơn là tiếc và buồn cho nó.”
(chú thích của dịch giả: Lúc này Nhật vẫn còn bế quan toả cảng)

John White kể lại ngày cuối ở Sài Gòn trước khi hai tàu Franklin và Marmion nhổ neo ra đi. Qua những gì ông viết trong nhật ký, ta thấy tình cảm quí trọng của ông cho vị tổng trấn Gia Định thành, Lê Văn Duyệt sau nhiều tháng sống ở đây, chứng kiến bao nhiêu thăng trầm và kinh nghiệm với nhiều tầng lớp trong xã hội:
“Sau khi trả tiền hết các đòi hỏi, chúng tôi đến gặp phó vương để từ giã và lấy các chữ ký cho giấy tờ để chúng tôi ra đi cũng như biên nhận thuế tàu neo tai cảng Sài Gòn, quà triều cống, v.v... Ngài phó vương bày tỏ rất hối tiếc về những gì chúng tôi đã gặp khó khăn khổ sở ở đây, và than phiền về sự mong muốn ông có được quyền lực để diệt hết những nguyên cơ của những sự than van của chúng tôi, ông mong rằng sẽ được gặp lại chúng tôi sớm lần nữa ở Sài Gòn, và nói lời từ giã chúng tôi với nhiều xúc động và quan tâm.

Cảm tưởng sau khi giã từ con người vĩ đại này, mang đến trong lòng tôi một sự hối tiếc vô cùng là tình huống đã không trao gậy trị vì của bán đảo tốt đẹp này vào tay ông, một người biết hơn nhiều làm sao mang nước này thành một nước vinh quang và hạnh phúc, hơn vị vua độc tài hiện nay, mà con tim ích kỷ chỉ đập để đáp ứng với cái đầu óc lạnh và dễ sai trái bao quanh bởi một mũ miện vương quyền.

Bây giờ là lúc chúng tôi đi theo vị quan quân nhu, và hai vị quan khác đến điện hoàng gia, vào một phòng rộng rãi và nghiêm trang với nền nhà gỗ đánh bóng. Trên tường, ở ba bên treo các màn chiếu và ở mặt thứ tư là một ngăn chia bằng gạch tráng vôi, ngăn với một phòng tiếp khách (saloon) rộng hơn mà chúng tôi được dip ghé mắt nhìn vào. Chúng tôi không thấy trong đó có gì đặc biệt; ngoại trừ một tủ lớn bằng gỗ hồng mộc, còn lại hoàn toàn không có đồ đạc hay vật cố định nào, gian nhà tối và ẩm hầu như hoàn toàn đóng lại. Từ cái tủ trên, một hộp bằng gỗ mun trang trí đẹp được lấy ra, chứa những con dấu lớn được ấn trên các giấy tờ của chúng tôi chỉ với sự hiện diện của ba hay bốn người lính canh gác đi chậm và yên lặng qua lại dưới ánh sáng yếu ớt của hoàng hôn trong điện cô đơn này.

Sáng ngày hôm sau, 30 tháng 1 (1820), chúng tôi nhổ neo và ra sông. Ngày kế, dòng nước xiết làm tàu Marmion trôi tới một giải đất ngầm như đã đề cập trước đây khi vào Sài Gòn, bắt buộc tàu phải thả neo chờ thủy triều lên. Khi đi qua ’Seven Mouths" ("bảy miệng", khúc sông Đồng Nai có nhiều cửa rạch chảy ra biển), chúng tôi lại nghe tiếng hoà tấu của đàn cá dưới lòng tàu. Và ngày 1 tháng 2 lúc 8 giờ sáng chúng tôi thả neo đối diện với Cần Giờ, và thả xuống hai người lính đi kèm chúng tôi từ Sài Gòn, và tiếp một quan văn ở Cần Giờ. Tôi cũng nên nói ở đây là tất cả các trạm lính canh ở dọc bờ biển xứ này, nơi mà khi ở chổ đất thấp thì có các bục được dựa trên bởi 4 cột cao từ 20 đến 40 feet (9 đến 18 m) là những đài quan sát mà một người lính trên đó có thể quan sát tất cả những gì trong tầm nhìn ở dưới. Ở Cần Giờ cũng có 1 đài như vậy.

Lúc 8 giờ sáng hôm sau, chúng tôi thả neo ở Vũng Tàu để chờ đợi tàu Marmion, và cũng để dựng lại cột buồm chính vì cây cột đang dùng đã bị bật sút ra. Ngày mùng ba, tàu Marmion gặp lại chúng tôi.

Và lúc 3 giờ chiều, chúng tôi nhổ neo ra biển cả. Một dải san hô ngầm, dưới mặt nước ít nhất khoảng 4 sải (7.2m) ở phía nam của mũi Cape St James (Cap St Jacques hay mũi Vũng Tàu) khoảng hơn 2 dặm, nhưng không coi là nguy hiểm cho tàu thương mại.

Tôi nghĩ tôi sẵn sàng tin, khi tôi nói ra, là một vài giọt nước mắt của chúng tôi đã nhỏ xuống, khi chúng tôi rời khỏi một đất nước, nơi mà chúng tôi đã gặp quá nhiều trục trặc gian nan và khó khăn; chỉ có vài người mà chúng tôi kính trọng thật sự đó là vị phó vương (tổng trấn), Cha Joseph và ông già Polonio. Pasqual là người thành thật nhưng tính khờ dại, và hoàn toàn bị lấn áp bởi một người vợ mưu mô và tham lam. Joachim (đã lấy được thông hành và sắp sửa rời khỏi nước để đi Siam, khi chúng tôi ra khơi) mặc dầu anh ta đã đi nhiều nơi ở Á châu, một người có nhiều nhận xét đáng kể và có trí nhớ lâu, và nói được nhiều ngôn ngữ phương đông, mặc dầu không hoàn toàn, lại thêm biết được tiếng Pháp và vài từ tiếng Anh, vẫn chưa phải là con người đáng quí trọng, vì ngoài nguồn gốc xuất thân từ một dân tộc nơi có một số lượng lớn những thói xấu không đáng kể có nguồn gốc Âu châu, ông ta lại ghép thêm những mầm trồi, từ đất màu mỡ nhất, của các phần xấu mất phẩm cách Á châu.”

Nguyễn Đức Hiệp

Các chú thích đánh số trong ngoặc đơn: Xem ở bài đầu, mục Tham khảo.


Xem online : Kỳ trước