Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Con người > Hồi tưởng > TỪ NGỒI TÙ KHÁM LỚN ĐẾN VƯỢT NGỤC TÀ LÀI (kỳ 3)

TỪ NGỒI TÙ KHÁM LỚN ĐẾN VƯỢT NGỤC TÀ LÀI (kỳ 3)

Thứ Ba 28, Tháng Mười Hai 2010

Xỏ vàm trâu cổ

Trâu có vàm mới kéo cày, kéo cộ, kéo súc được. Trâu không vàm như xe cam-nhông máy tốt, xăng đủ mà không có tay lái; vô dụng. Cho nên chủ trâu ai cũng sớm lo xỏ vàm trâu. Người ta xỏ vàm trâu khi trâu còn tơ. Không ai đợi tới trâu dậy cổ mới xỏ vàm bao giờ. Trâu đực bốn tuổi thì cổ nó đã lớn cả ôm; lúc đó nó dữ lắm, sờ tới mũi nó thì liệu hồn! Nó húc chết. Khép nó vào chuồng để xỏ vàm? Nó phá gãy bất kỳ thứ cổng nào.

Vậy mà tôi đã mắt thấy một vụ xỏ vàm trâu cổ.

Người đã làm cái việc không ai dám làm đó là Tô Ký. Khi ấy Tô Ký mới mười chín tuổi.

“Chủ mưu” là tôi. Bộ muốn hại thằng trẻ sao mà xui nó xỏ vàm trâu cổ? – Không! Hay là sai tướng lên đánh Ma Thiên Lãnh? – Có mưu đồ tựa như vậy; có mục đích chính trị chính đáng. Ai tinh lắm mới hé thấy. Con mắt bình thường kể cả con mắt hay ngờ vực, cảnh giác của bọn sếp Tây cũng không hơn mắt bịt bạc. Thôi thì hãy nói ngay rằng việc xỏ vàm trâu cổ nằm trong kế hoạch của Đảng ủy trại tập trung Tà Lài nhằm vận động đồng bào Mạ, tạo điều kiện cho một cuộc khởi nghĩa hoặc một cuộc vượt ngục: phải có cách làm cho đồng bào (bản địa) kính phục và thương yêu mình bằng một số hành động nổi bật nào đó, chớ tuyên truyền miệng thì đồng bào có hiểu tiếng Việt đâu!

Tháng 10 năm 1940, bọn tôi, có mấy trăm người bị giam ở trại tập trung Tà Lài. Trại nằm sát mé sông Đồng Nai. Tại đây có một bến phà. Ở phía đông của bến phà có một ngôi nhà lụp xụp nuôi tới chừng ba chục con trâu. Ngoài ngôi nhà này không hề có căn nhà nào khác. Ở đây, bản làng đồng bào Mạ cách xa Tà Lài nhiều cây số, nhưng ngày ngày vẫn có người mang nỏ, mang gùi, xách chà gạc,[15] xách thịt rừng đi qua đây, có khi một vài lít rượu. Đỡ buồn cho tụi tôi biết mấy!

Trong bầy trâu của chủ nhân ngôi nhà ở sát bến phà, có một con trâu duy nhất không vàm. Đó là anh trâu cổ, cổ lớn như thùng bia. Sừng dài mới chừng hai gang, nhọn hoắt. Cao lớn và gọn gàng. Da nó bóng láng đen thùi lũi. Nó nghinh lên thì mắt nó như hai cục lửa, mũi phì ra hai luồng khói. Thấy mà ghê. Thế mà chẳng lợi gì ráo cho chủ nhà ngoài hai việc: nhảy cái và giữ cọp. Bảy, tám chú nghé đều là con của anh trâu cổ này. Bầy trâu sáng đi ăn cỏ ở trảng thì anh trâu cổ gom tất cả vào một cụm rồi nó đi rảo xung quanh, nhìn vào mé rừng. Bầy trâu, chiều về nhà, nằm ở sân, nghé chính giữa, lớn xung quanh, đưa đầu ra ngoài, còn anh trâu cổ ta thì tự cho phép mình đi đi lại lại như một “chú cai”, hình như nó có ý thức cảnh giác: ở đây cọp rình luôn. Người ta kể rằng, mới mấy tháng trước thôi, anh trâu cổ húc xẹp lép một ông cọp già vào gốc cây bằng lăng!

– Anh trâu cổ này nếu có vàm thì tui cho người ta mướn kéo súc, được nhiều tiền lắm: đổi lấy muối cũng được mấy chục giạ! Chủ nhà nói bập bẹ với tôi như vậy.

– Sao không liệu xỏ mũi cho nó?

– Làm sao được? Nó chém chết. Sức trai, mưu già, ở mấy bản làng xung quanh đây, không làm gì được; không ai dám làm. Có lẽ rồi phải để người ta bắn nó, làm thịt bán thôi.

– Nếu có ai xỏ mũi con trâu cổ đó thì anh tính sao?

– Thưởng cho một đùi heo rừng và một vò rượu cần.

Tôi hẹn với chủ nhà, để tôi hỏi anh em tôi có ai biết xỏ mũi trâu không rồi sẽ báo lại.

* * *

– Ê, Ba Ký ơi! Chú mày nói là lớn lên từ cái nghề làm ruộng chăn trâu, vậy có biết xỏ mũi trâu không? Tôi hỏi.

– Dễ như quấn thuốc rê.

– Đừng chủ quan: không phải trâu tơ mà trâu cổ. Dám không? Được không?

Tô Ký suy nghĩ một phút, chỉ một phút thôi, rồi trả lời:

– Lấy thế thì làm được liền.

– Thế là thế nào?

– Như vầy, như vầy…

– Uất Trì Cung tắm ngựa được thì chú mày xỏ vàm trâu cổ được chứ gì. Có biết Uất Trì là ai không?

– Truyện Thuyết Đường Chinh Đông, nhiều truyện Tàu khác nữa trong lịch sử bắc phương tôi thuộc làu làu. Tôi cũng sẽ làm việc “tắm ngựa” cho các anh xem.

– Cố gắng nghen! Tôi sẽ bảo chủ trâu kêu đồng bào Mạ mấy bản xa gần đến xem. Hễ đồng bào họ khen, họ phục thì tụi mình dễ vào bản làng, vào làm gì chú Ba mày biết rồi, không phải chỉ có việc mua gà và mua rượu.

Ngày giờ xỏ vàm trâu cổ đã tới.

Trên bãi cỏ bờ sông sau trạm y tế, bầy trâu non già ba chục con họp đông đủ. Cũng đông đủ sếp Tây hai thằng, vài chục chú mã tà, mấy trăm anh em tù nhân đều tề tựu, như để xem xiếc.

Tôi hồi hộp, dẫu rằng tin chắc ăn.

Tô Ký đầu trần, lưng trần, bận xà lỏn, tay cầm một sợi dây mây vót nhọn. Coi như một võ sĩ sắp lên võ đài.

– Chắc ăn không mậy, Ba Ký? Văn hỏi.

– Như ba bó một giạ – Tô Ký đáp và cười có duyên.

Bỗng Tô Ký dõng dạc ra lệnh:

– Lùa hết trâu xuống sông một lượt!

Trót, trót, trót, roi quất đít trâu!

Trâu ùa xuống sông, con này trước con kia, con này sát con kia.

Nước Đồng Nai chảy không lấy gì làm mạnh.

Tô Ký cầm dây mây, nhảy trên lưng trâu, một con, hai con, ba con, rồi nhảy lên lưng anh trâu cổ. Gã trâu cổ lúc này ở gần giữa bầy trâu ba mươi con chen nhau như nêm. Đoạn Tô Ký hai chân kẹp cổ trâu ngạnh, mình trườn dài ra trên đầu trâu, nằm giữa cặp sừng của nó, với tay ra trước nắm mũi trâu, lấy dây mây đã vót nhọn, đâm một cái sựt, kéo nhanh dây mây buộc chặt vào mang tai trâu. Tất cả làm xong chừng một vài phút. Anh trâu cổ bị người ngồi trên cổ, nằm sấp trên đầu, sờ mũi, đâm mũi; nó lồng lộn nhưng không cách nào được vì chân không chấm đất, nó quơ sừng mà người ta nằm giữa hai cái sừng, nó chém sao được, nó muốn hất mà hất sao được vì người ở cổ nó chớ có ở trước mặt nó đâu; nó lồng phải, lồng trái đều đụng trâu khác; trước nó, sau nó đều có trâu. Rốt cuộc, hình như nó bực lắm, mà phải chịu thôi!

Cột dây vàm rồi, Tô Ký đứng phắt dậy trên lưng trâu ngạnh, nhảy qua lưng trâu khác, một con, hai con, ba con, bốn con, rồi nhảy lên bờ, hô: Xong!

Mấy trăm người hoan hô nhiệt liệt.

Sếp Tây Ménétrie nói:

– Vous êtes formidable! (Anh cừ thật)

Đội, cai, lính hết lời khen:

– Gan hết cỡ, mưu rất cao!

Đồng bào Mạ tỏ ý khâm phục, chỉ tay về phía mặt trời lặn, bảo: “Làng tôi ở bên kia” như tỏ ý mời.

Bầy trâu xuôi dòng, tới Cồn Mai thì lên bờ, lại gặm cỏ. Riêng anh trâu cổ rày đã có vàm, lồng lộn dữ dội: chạy tới, chạy lui, cụng vào gốc cây, lăn trên bụi rậm, rống lên. Cuối cùng mệt lừ, nó nằm sấp xuống bãi cỏ.

Mấy tháng sau, chúng tôi, trong đó có Tô Ký, vượt ngục Tà Lài. Địch ra lệnh cho đồng bào xuống núi, xé rừng tìm bắt bọn tôi; chúng treo giải thưởng cho đồng bào, hứa nào muối nào gạo, nào tiền nếu bắt sống hay đem đầu về được. Nhưng chúng tôi vẫn an toàn ẩn náu trong rừng núi Tà Lài để rồi an toàn về thành thị, về đồng bằng, tiếp tục hoạt động cách mạng.

Không để bị khiêu khích

Tháng 12, được tin chính xác rằng khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra ngày 23 tháng 11, đã hoàn toàn thất bại, nên chúng tôi bãi bỏ sự chuẩn bị khởi nghĩa ở Tà Lài. Dĩ nhiên là công tác binh vận, tuyên truyền trong đồng bào Mạ thì vẫn tiếp tục. Hàng trăm anh em ở các tỉnh mới bị bắt đưa lên trại giam cho chúng tôi biết do khởi nghĩa đã nổ ra cuối tháng 11 thất bại; thực dân Pháp đàn áp rất dữ dội, tàn sát dã man hơn cả những năm 1930-1931. Chúng tôi không biết tình hình căng Tà Lài sẽ ra sao để mà đối phó. Địch sẽ khủng bố tới mức nào ở trại giam? Dù sao đi nữa thì mình cũng phải bình tĩnh, đề phòng, dự tính các khả năng.

Một hôm, chủ tỉnh Biên Hoà La Rivière lên Tà Lài với một tiểu đội lính khố xanh hộ vệ. Hôm đó, cũng như mấy hôm trước, từ sau khi nổ ra khởi nghĩa tháng 11, trại viên không toán nào đi làm ngoài xa cả; tuyệt đại đa số đều tập trung, già cả thì chẻ tre đan ky trong nhà, trai trẻ thì xeo đá gánh đất làm con đường lớn gần sát trại đi lên hướng đông bắc dọc theo sông Đồng Nai. Bỗng sếp căng dẫn chủ tỉnh[16] đến chỗ tù nhân đang xeo[17] đá đắp đường:

- Tất cả, tập hợp lại! Cuốc xẻng bỏ hết xuống đất! Sếp căng ra lệnh.

Anh em mới cũ, già trẻ non năm trăm người tập hợp lại dưới dốc. Sau lưng y là toán lính lên cò súng trường nghe rôm rốp.

- Có biến rồi; chắc khủng bố; anh em nói với nhau.

- Bình tĩnh, bình tĩnh! Đứng thưa ra, thưa ra! Tôi bảo anh em.

Chủ tỉnh nói: Hãy nghe ta đây! Vừa qua, thừa lúc nước Pháp bại trận ở châu Âu và bị rối ở biên giới Thái Lan, Đảng Cộng sản các nước đã cầm vũ khí nổi lên toan đánh đổ chính quyền Pháp ở Nam Kỳ. Đảng của các người đã hoàn toàn thất bại. Chính phủ đã và đang thẳng tay đàn áp và đàn áp không thương tiếc. May lắm mươi, mười lăm năm nữa, đảng của các người mới có thể ngóc đầu dậy. Ta báo tin cho các người biết. Bây giờ các người hãy trả lời cho ta câu hỏi sau đây:

Hỡi các người ở căng Tà Lài này, tán thành hay phản đối cuộc bạo động vừa qua ở Nam Kỳ?

Như thường lệ, là đại biểu được toàn thể anh em bầu cử, tôi dịch cho anh em nghe. Tôi thấy anh em lo ngại lắm. Rõ ràng quá, thằng chủ tỉnh cố khiêu khích. Mấy trăm cặp mắt ngó vào tôi như bảo phải trả lời sao cho vừa giữ thanh danh của đoàn thể, vừa tránh khủng bố đẫm máu cho anh em. Tôi yêu cầu các anh em ủng hộ tôi. Khó trả lời quá. Nói tán thành khởi nghĩa thì thằng chủ tỉnh có thể sẽ ra lệnh bắn. Lúc này, bắn chết năm, bảy chục, một hai trăm người, tụi Tây ở đâu cũng dám làm, bọn tề xã còn dám tự tiện giết người kia mà. Còn nói không tán thành hay phản đối khởi nghĩa mặc dầu khởi nghĩa đã nổ ra rồi, đã thất bại rồi, thì hoá ra mình hèn quá, Tây nó khinh mình, mình cũng xấu hổ với anh em. Tôi xoè tay làm dấu hiệu bảo anh em đứng thưa ra hơn nữa. Rồi tôi bước tới mấy bước, đứng lên một tảng đá lớn, khá cao, với ngụ ý là, nếu tôi bị bắn, tôi sẽ đổ từ trên xuống, chớ không phải ngã bẹp. Tất cả diễn ra hết sức nhanh. Tôi trả lời bằng tiếng Pháp, sau lưng tôi có Văn dịch lại cho tất cả anh em nghe.

“Này ông chủ tỉnh! Ông hỏi vậy chúng tôi ở Tà Lài tán thành hay không tán thành cuộc khởi nghĩa
vừa mới xảy ra ở đồng bằng? Tôi xin trả lời cho ông và tôi chắc ông đủ bình tĩnh để nghe. Ông ơi! Nước Việt Nam (lúc ấy tôi nói là Đông Dương) của chúng tôi từ mấy chục năm nay ở dưới quyền thống trị của nước Pháp, cũng như mấy tháng nay nước Pháp yêu dấu của các ông bị quân Đức Hitler xâm chiếm, dày xéo, thống trị. Chúng ta, ông cũng như tôi, đều là đồng cảnh ngộ mất nước. Tôi được biết, và ông thừa biết hơn tôi, rằng hàng chục vạn người Pháp thường dân và binh lính đang nổi lên cầm vũ khí tiếp tục đánh Đức để giải phóng quê hương. Tôi tin chắc rằng trong thâm tâm của ông chủ tỉnh, ông rất đồng ý với những người Pháp kháng chiến rằng không thể van xin quân Đức rút lui mà nhất thiết phải đánh đuổi chúng bằng vũ lực, bằng súng đạn. Ở góc trời Đông Dương xa xăm này, vì tấm lòng yêu nước Pháp, vì ý thức bảo vệ danh dự người Pháp, ông tuy không nói ra, ông không thể nói ra, mà ông thực sự một lòng với những người Pháp kháng chiến trong lòng nước Pháp. Chẳng nói giấu chi ông, ở cái xó rừng núi Tà Lài này, tôi sao lại không thông cảm với đồng bào của tôi trong biến cố tháng 11 vừa qua ở Nam Kỳ?

Đó, tôi đã trả lời cho câu hỏi của ông chủ tỉnh”.

Thằng Rivière nãy giờ nín thinh, bây giờ tay không chống nạnh nữa; nó nhìn xuống đất, rồi nhìn lên khi tôi nói tiếp:

“Còn như ông bảo rằng may ra mười, mười lăm năm nữa Đảng chúng tôi mới sống lại được. Thì, ông ơi, làm sao biết được mười lăm năm hay năm năm nữa, cục diện thế giới và cục diện Đông Dương sẽ biến đổi hoàn toàn. Ông còn sống, tôi chắc cũng còn sống, mọi người ở đây cũng còn sống, chúng ta tất cả là chứng nhân của lịch sử, chúng ta nhất định sẽ vui mừng thấy được nước Đức của Hitler bị bẻ gãy xương sống, nước Pháp của các ông và nước Việt Nam của chúng tôi đều được tự do”.

Thằng Tây xem chừng mất hết cái hùng hổ ban đầu. Nó không nói năng gì hết. Nó quay lưng đi; sếp căng và toán lính khố xanh mang súng trên vai, theo sau, êm ru. Mấy trăm anh em chúng tôi cười thầm, bàn bàn luận luận.

Thắng một trận!

Thoát nạn; khi nãy tưởng đâu đại biến tới nơi!

Ông Trần Hữu Độ[18], tục gọi là ông “Hồi trống tự do” hay là ông “Biện chứng pháp”, vỗ vai tôi, nói: “Thiệt chiến[19] Tà Lài, nghe khoái thật”. Ở sở đan ky[20], trong số người có tuổi, ông Trần Hữu Độ nổi tiếng là một kho truyện Tàu và một kho tiếu lâm.

Vượt ngục

Ở căng Tà Lài cuộc sống không đến nỗi cực khổ quá, có thể nói thảnh thơi là khác, được như vậy không phải do chế độ của trại giam mà do tổ chức tù nhân của chúng tôi; công việc khoán phần lớn ở trong rừng, chỉ có mã tà đi theo cốt để giữ không cho chúng tôi trốn hơn là để thúc bách tù làm. Chỉ một lần sếp Tây đánh một đồng chí một gậy, đồng chí ấy quơ xà beng lên đỡ, tất cả anh em đều đứng lên, xẻng, cuốc dao, mác trong tay, mắt đổ dồn vào tên sếp Tây, nó khiếp quá, bỏ đi luôn. Từ đó trở đi không có vụ đánh đập nào nữa. Ăn, thì gạo thừa, cá khô đủ; chúng tôi còn đánh cá trên sông, mua thịt rừng, rượu cần ở đồng bào thiểu số. Rau thì thiếu gì trong rừng. Thuốc men không biết đâu là đủ, nhưng sốt rét thì có ký ninh, uống nước thì có nước sông lọc bằng thuốc tím. Ở, thì nhà tranh vách nứa, tự làm, nhưng được phát mùng, phát chiếu. Tây nó cốt được yên bằng việc tách tụi tôi khỏi nhân dân, không cốt được kết quả lao động khổ sai. Chúng tôi, cốt học tập dạy nhau để làm “cầu thủ dự bị” lúc cần, không cốt đấu tranh vì lợi ích hàng ngày. Sếp, mã tà đều nể chúng tôi, vì chúng tôi bao giờ cũng giữ nhân cách người yêu nước, người cán bộ cách mạng, cộng sản.

Thế nhưng, chẳng những riêng mình tôi, rất nhiều anh em nuôi chí vượt ngục ngay từ đầu. Có người muốn vượt ngục vì không muốn bị giam giữ vô thời hạn. Có người cho rằng, ngày nào đó, Tây bị cách mạng nổi lên đánh đổ hoặc bị một đế quốc khác giành lấy thuộc địa thì chúng sẽ tàn sát mình trước khi tháo chạy, cho nên mình phải liệu trước, thoát khỏi trại là hơn. Riêng tôi và một số cán bộ nòng cốt xác định rằng thời kỳ chiến tranh đế quốc chính là thời kỳ cách mạng giải phóng. Cơ hội trăm năm có một. Cha anh đã thất bại hồi chiến tranh 1914-1918; bây giờ chúng ta nhất thiết phải thành công. Cho nên chúng tôi đã tính đến vượt ngục từ những ngày mới đến Tà Lài; còn tính đến khởi nghĩa ở Tà Lài nữa.

Vào thời điểm cuối 1940, khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, rất nhiều đồng chí bị giết, bị bắt, kể đến hàng ngàn, nhiều hơn bất cứ lúc nào. Cả Trung ương, Thường vụ đều bị bắt, chưa kịp phục hồi tổ chức thì tới phiên Xứ ủy Nam Kỳ hai lần bị bắt, rồi lần lượt các tỉnh ủy viên bị bắt, cơ sở Đảng và quần chúng bị đánh tan tác. Các bạn mới lên căng sau này báo cáo tình hình bi đát ấy. Và hôm rồi tên tỉnh trưởng La Rivière quả quyết rằng: “Hoạ may, mười, mười lăm năm nữa, đảng của các anh mới có thể ngóc đầu dậy”.

Vậy thì đến lúc “cầu thủ dự bị” phải vào sân kẻo trễ. Đã đến lúc các đồng chí bị giam ở Tà Lài, ai có nhiệt huyết, ai có tinh thần, phải vượt ngục trở về với dân, hoặc để bổ sung cho phong trào bị tổn thất quá nặng nề, hoặc gây dựng lại hệ thống cơ sở bị tàn phá tan hoang. Các bạn mới lên căng Tà Lài kể lại một phần tình hình địch khủng bố: nhà tù đầy nhóc, địch phải dùng các sân banh rào kẽm gai để nhốt người dưới nắng, dưới mưa; chúng xỏ dây xâu chuỗi người bị bắt để dẫn về trại giam, xỏ dây kẽm ngang bàn tay như ta lấy nhánh trâm bầu xỏ vào mang con cá, địch phải dùng tới xà lan ghe chài để giam chính trị phạm; chiến sĩ bị giam đông đến mức chỉ có chỗ đứng, không có chỗ ngồi, nói chi chỗ nằm; bọn thực dân cho tù uống nước bằng vòi rồng, cho ăn bằng cách rải cơm xuống xà lan, ghe chài nêm đầy người như người ta rải lúa cho gà trên sân; đến một lúc nào đó thì đám thực dân ra lệnh cho ca nô dắt những xà lan ghe chài đầy người kia ra cửa biển rồi lạnh lùng đánh chìm! Nghe đau thương hết sức! Pháp cố làm sao cho trong lúc chiến tranh này, không còn một tổ chức cách mạng nào, nhất là không còn có Đảng Cộng sản, thì mới giữ được Đông Dương trong tay Pháp. Toàn quyền Catroux đã công khai tuyên bố như vậy ngay từ khi hắn chân ướt chân ráo mới đến trấn nhiệm xứ này.

Phải vượt ngục thôi! Để góp phần xây dựng lại Đảng bộ mạnh. Không có một Đảng bộ mạnh thì không có giải phóng.

Phải vượt ngục sớm; nếu chậm trễ thì có thể sẽ không còn cơ hội vượt ngục nữa. Mấy hôm nay, ê kíp đan ky của Trần Hữu Độ được lệnh sản xuất thật nhiều, đan bao nhiêu, xe cam-nhông chở đi hết bấy nhiêu. Chở đi đâu? Để làm gì? Tụi Pháp chuẩn bị một “căng” nào ở núi cao rừng sâu hơn Tà Lài? Và biết đâu chúng nó không thực hiện kế hoạch đưa những người đặc biệt “nguy hiểm” đi xa hơn, đi các đảo thuộc địa Pháp trên Ấn Độ Dương? Có thể lắm; và khi ấy thì không còn vượt ngục được nữa. (Sau mới biết rằng dự đoán của chúng tôi là đúng: anh em Tà Lài bị dời qua trại giam Bá Rá, và một số đồng chí như Phan Vân, Minh, cả giáo chủ Cao Đài Phạm Công Tắc cũng bị đưa sang tận Madagascar).

Trong lúc chuẩn bị vượt ngục, Đảng ủy căng Tà Lài đặc biệt chú trọng đến việc tập hợp tư liệu, thông tin về cuộc khởi nghĩa thông qua các đồng chí mới bị đưa lên căng Tà Lài sau ngày 23 tháng 11 năm 1940, nghiên cứu, sơ kết kinh nghiệm, rút ra một số bài học cần thiết để trang bị cho anh em sắp về công tác.

Việc chuẩn bị vượt ngục được bắt đầu ngay sau Tết Tân Tỵ 1941: chọn người, điều tra đường đi nước bước, phơi cơm khô, trữ thuốc men, tạo một thiểu giấy tờ hợp pháp, kiếm tiền, bắt liên lạc với các đồng chí bên ngoài còn sống sót. Ba anh được lệnh đi trước để sắp xếp thực hiện một kế hoạch vượt ngục có quy mô; đó là Khước (người Mỏ Cày có bộ râu Quan Công), “Minh Thẹo” (người Long Hồ, tháo vát) và Khuy (được gọi là “con chim ngủ ngày”, lầm lì ít nói). Ba anh đi trót lọt. Nhưng ở Tà Lài chúng tôi chờ mãi, không nhận được tin gì của họ. Như vậy là phải thực hiện kế hoạch vượt ngục cho một số ít người có năng lực đã được thử thách về các mặt lý luận, tổ chức, đấu tranh. Phải từng toán nhỏ mới dễ đi trót lọt được. Tôi khá lúng túng trong việc chọn người. Số anh em có tinh thần, có năng lực thì nhiều; lựa ai, không lựa ai? Lấy nhiều thì khó đi trót lọt, lấy ít thì hàng chục đồng chí tốt sẽ thắc mắc, phiền trách. Cuối cùng Đảng ủy đồng ý tám người cùng đi. Ngoài tôi ra, còn có các anh:

- Văn, tức Kiệt, kỹ sư, nguyên là sinh viên trường Đại học Cộng sản Đông Phương.

- Phúc (Dương Quang Đông), dân cựu trào, đã vào tổ chức từ năm 1927.

- Nhâm, công nhân, đã là thành ủy viên thành phố Sài Gòn cùng thời với chị Minh Khai; lái xe, lái tàu đều giỏi.

- Giác, một cán bộ cựu trào từ năm 1930, đã từng hoạt động ở Cao Miên.

- Đức, một cựu tỉnh ủy viên Bến Tre, giỏi nông vận.

- Trung, một cán bộ hoạt động công đoàn trong nhóm Dân chúng[21] thời Mặt trận dân chủ.

- Tô Ký, một thanh niên Hóc Môn, võ giỏi, mưu trí, thuộc làu các truyện Tàu như Tam Quốc, Đông Chu liệt quốc; tôi nhằm rằng tay này có thể trở thành một cán bộ quân sự đắc lực; trong vụ “Xỏ vàm trâu cổ” vừa qua, Tô Ký tỏ ra rất can đảm, mưu trí.

Tôi tính rằng với số tám người này cộng với ba anh đã đi trước, nếu không bị mất mát hay ít bị mất mát, thì có thể thực hiện được nhanh chóng kế hoạch gây dựng lại cơ sở và hệ thống tổ chức Đảng bộ Nam Kỳ, tạo điều kiện tổ chức vượt ngục quy mô lớn cho anh em trại giam. Vấn đề trước mắt là phải làm sao cho chúng tôi nhờ ít người mà vượt ngục trót lọt.

Muốn đi trót lọt, phải quyết định đúng hướng đi. Chắc chắn là một khi sếp căng và chủ tỉnh hay rằng tụi tôi đã thoát khỏi căng thì lập tức chúng ra lệnh truy nã, cho cả bộ máy cai trị trong tỉnh Biên Hoà, trong xứ Nam Kỳ, từ trên xuống đến xã, khắp các làng thiểu số, ra sức săn lùng. Nhóm tụi tôi, gạo cội của cộng sản, mà tuột khỏi tay chúng nó thì sẽ gây ra vô vàn khó khăn cho nhà cầm quyền. Vậy chắc chắn là Pháp sẽ phải tức tốc, trong ngày, giăng một lưới dầy đặc xung quanh Tà Lài trước hết chặn tất cả các ngõ ra. Chúng tôi đoán bọn Tây sẽ chặn hướng đông là hướng ra đường 20, cách Tà Lài mười bảy
cây số; đồng thời chúng sẽ chặn hướng tây là hướng về Thủ Dầu Một, và nhất là chặn hướng nam là hướng về Biên Hoà dọc sông Đồng Nai. Tôi cho rằng Pháp không quan tâm mấy đến hướng bắc đông bắc là hướng càng đi càng vào rừng sâu, lên núi cao, dân cư toàn là người thiểu số, hướng ngược dòng sông Đồng Nai đầy gành thác. Cho nên tôi đề nghị với anh em là ta nên đi theo hướng ngược sông, hướng vào rừng sâu, núi cao, tuy dễ bị sốt rét rừng, nhiều cọp beo, nhưng là hướng mà địch ít ngờ nhất, còn ta thì đã chuẩn bị lương thực, thuốc men khá đầy đủ rồi, có thể chịu đựng một tháng hoặc hơn thế.

Vào một đêm tối trời đầu tháng ba năm 1941, thời giờ vượt ngục đến. Tôi tiếp mấy người cai đội mới lên đổi gác, những cuộc tiếp ấy đã thành lệ, cùng họ uống trà, đàm đạo, trong một cái chòi tứ giác ở gần nhà y tế, còn bảy đồng chí khác đã bí mật tập kết tại một địa điểm bờ sông. Buổi tiếp xong, tôi gọi Tào Tỵ lại, báo cho Tỵ biết rằng đêm nay tụi tôi ra đi, Tỵ ở lại để giữ vững tinh thần của anh em, và để lập kế sao cho Tây tà không thể sao biết sớm là ông Giàu đã đi khỏi trại. Tỵ được lệnh phải ở lại. Ông Trương Phi ấy nổi nóng, phản ứng dữ, nhưng mau chóng tuân theo quyết định của Đảng ủy. Tỵ phải vào mùng của Giàu, đắp mền, nằm im cho đến gần sáng, đề phòng khi lính đi rỏn nửa đêm thấy vắng ông Giàu, Giàu nằm đầu sập tre trại một, lính tuần tra đêm đêm vẫn ghé coi ông Giàu còn đó hay không. Gần sáng Tỵ sẽ báo lại với anh em rằng hồi hôm Giàu, Văn, Phúc,… đã đi rồi. Đến lúc đó đoàn vượt ngục đã đi cách xa trại giam mấy chục cây số bằng đường sông ngược lên phía đông bắc, hướng an toàn nhất. Sáng ra, thay mặt cho các trại viên còn lại, Tỵ sẽ đem bức thư của tôi gởi cho sếp căng. Thư ấy, Tô Ký còn thuộc lòng dù đã mấy mươi năm sau. Trong đó tôi viết:

“Ông sếp căng:

Hôm nay chúng tôi ra đi, xin để lại mấy dòng từ biệt.

Chúng tôi ra đi không phải trước hết vì muốn gặp cha mẹ, vợ con.

Gặp lại sao được trong tình cảnh tù vượt ngục?

Chúng tôi ra đi, nói thật, không phải vì chế độ căng quá khắc nghiệt. Ở căng tuy khổ – mà ở nhà tù nào lại không khổ – nhưng ông sếp không ác. Vả lại ông và tôi đã nhiều lần tâm sự với nhau, thông cảm với nhau về cái nhục mất nước, nước ông và nước tôi.

Chúng tôi ra đi vì mục đích giải phóng dân tộc chúng tôi, giành lại độc lập tự do cho đất nước chúng tôi.

Chắc những người Pháp ở Pháp hiện giờ cũng đang chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của quân Đức Hitler, nhằm giành lại độc lập tự do cho nước Pháp. Hẳn rằng ông sếp đồng tình với những người Pháp yêu nước đó. Việc làm của họ và việc làm của chúng tôi giống nhau.

Mong rằng, chúng tôi ra đi rồi, ông sếp và những người cộng sự của ông sẽ tiếp tục đối xử ôn hoà, phải lý với anh em chúng tôi còn ở lại.

Xin chào từ biệt ông.

Thay mặt các bạn của tôi

Trần Văn Giàu”

Tào Tỵ kể lại: hửng sáng ngày hôm sau, khi anh lên văn phòng sếp căng báo cáo lại rằng: Trần Văn Giàu và bảy người đã trốn đi từ bao giờ không biết mà có để lại cho sếp một bức thơ, thơ đây. Ménétrier bình tĩnh báo cáo ngay cho La Rivière, chủ tỉnh Biên Hoà, đồng thời ra lệnh giới nghiêm ở trại giam: không một ai được ra ngoài hàng rào dây kẽm gai. Chín giờ, La Rivière lên tới Tà Lài, liền tập hợp tù nhân, la hét, đe doạ và tuyên bố: “Trong vài ngày, lâu nhất là một tuần, các ngươi sẽ thấy người Mọi đem đầu của Trần Văn Giàu và đồng bọn treo ở trước cửa trại giam”.

(Hết Phần Thứ Nhất)

Chú thích của người biên tập

15 Chà gạc: dao rừng cán cong, phổ biến trong các dân tộc vùng Tây Nguyên và miền núi Đông Nam Bộ.

16 Chủ tỉnh: administrateur, viên chức Pháp, cai quản một tỉnh ở Nam Kì dưới thời thực đan (Nam Kì là thuộc địa, nằm dưới chế độ trực trị). Ở Trung Kì và Bắc Kì, bộ máy chính quyền vẫn là bộ máy của triều đình Huế, nhưng tại mỗi tỉnh, các quan phủ, quan huyện chịu lênh của viên công sứ (résident) người Pháp.

17 Xeo đá: dùng đòn bẩy để lay chuyển những hòn đá lớn.

18 Trần Hữu Độ: nhà văn, bút hiệu Quân Hiến (1887-1945), quê quán trà Vinh. Chịu ảnh hưởng của phong trào Duy Tân, dịch sách Tân Thư của Lương Khải Siêu, viết Tiếng chuông truy hồn (1925), Hồi trống tự do (1926); năm 1928 bị tù vì tội « xúi dân làm loạn » (tương đương với điều 88 của Luật hình sự ngày nay). Ra tù, tham gia phong trào Đông dương Đại hội, thành lập Tân Văn Hoá Tùng Thư, chịu ảnh hưởng mác-xít, viết - Biện chứng pháp (1936), Mười một công thức của Karl Marx làm cơ sở Duy vật sử quan (1936), Đế quốc chủ nghĩa (1937). Bị giam lần thứ nhì năm 1941.

19 Thiệt chiến: giao tranh bằng lưỡi (thiệt), tranh luận. Ý nói tới cuộc “thiệt chiến quần nho” giữa Khổng Minh và bọn nho sĩ Đông Ngô thời Tam Quốc.

20 Ky: đồ đan bằng tre dùng để xúc đất, hót rác.

21 Dân chúng: tờ báo (tiếng Việt) công khai của Đảng cộng sản, xuất bản tại Sài Gòn trong thời gian 1938-1939, cùng trụ sở với tờ báo tiếng Pháp Le Peuple, ở số 43 đường Hamelin (nay là Lê Thị Hồng Gấm).

(Source: Forum)


Xem online : Kỳ sau