Trang nhà > Con người > Hồi tưởng > ĐÀ LẠT, PHÚ LẠC, U MINH (kỳ 2)
ĐÀ LẠT, PHÚ LẠC, U MINH (kỳ 2)
Thứ Năm 30, Tháng Mười Hai 2010
Đêm sau, tôi phải giải đáp vấn đề triển vọng của chiến tranh Nga-Đức; liệu Đức sẽ đánh bại Nga chăng?
Trước nay, người cộng sản Việt Nam ai cũng quan niệm rằng Liên Xô là thành trì của cách mạng thế giới, sức mạnh của cách mạng thế giới một phần quan trọng đặc biệt là ở sức mạnh của Liên Xô và uy tín hết sức lớn của cách mạng tháng 10 năm 1917. Khi Pháp bị Đức đánh bại chỉ trong mấy tuần lễ thì người cộng sản Việt Nam bảo rằng ấy là vì đế quốc Pháp bạc nhược chớ nếu quân phát xít Đức mà đụng tới Hồng quân Liên Xô thì chúng sẽ bị đánh bại nhục nhã. Bây giờ Nga- Đức chiến tranh đã nổ ra rồi. Trái với dự đoán, Nga lui, lui mãi, lui sâu vào nội địa mình; Đức tiến, tiến nhanh, hạ phòng tuyến Stalin một cách dễ dàng như hạ phòng tuyến Maginot, tiến thắng một mạch đến ngoại ô Leningrad, đến gần Moscou cách chỉ ba, bốn mươi cây số, lấy hết vựa lúa Ukraine, chỉ cần một thời gian ngắn mấy tháng! Thế là thế nào? Thế thì sẽ ra sao? Ai nấy ngơ ngác!
Nga đang ở thế yếu, thế thua. Có thể Nga gượng lại không? Nếu Nga thua, nếu Hồng quân ta cho là vô địch mà bị quân Hitler đánh bại, nếu Liên bang Xô Viết bị đánh sụm, thành trì cách mạng thế giới bị tan thành thì còn gì cách mạng thế giới nữa, và cũng theo đó, còn gì là cách mạng Đông Dương, cách mạng Việt Nam nữa?
Bảy Trân nói: “Bọn tao ở đây không còn lạc quan chút nào. Bi quan choán hết tâm hồn bọn tao, thêm vào cái bi quan do thất bại của khởi nghĩa 1940”. Mấy ngày nay, Bảy Trân đã có lần thủ thỉ với tôi rằng ít ai cho rằng Liên Xô chịu đựng nổi; phần lớn đều nghĩ rằng Liên Xô cuối cùng sẽ bại trận, nhất là khi đồng minh của Đức là Nhật sẽ vì Trục chung hay vì lợi ích riêng mà tiến công Liên Xô ở Viễn Đông cốt chia xẻ đất Sibêri.
Về cuộc chiến Nga-Đức, tôi đã có dịp trình bày hồi đầu năm 1941 ở Tà Lài, khi cuộc chiến tranh mới bắt đầu với những thất bại liên tiếp của Hồng quân. Đức thắng là tạm thời và trước mắt còn có thể thắng nhiều hơn nữa, nhưng chung cuộc rồi Đức sẽ thua. Nga thua là tạm thời và có thể thua đậm hơn nữa, nhưng chung cuộc rồi Nga sẽ thắng, thành trì cách mạng thế giới vẫn đứng vững. Những lý lẽ của tôi, đều đã được trình bày trước hàng trăm người, cộng sản có, không cộng sản có, Cao Đài, Trốt-kýt, quốc gia đơn thuần có, cả lính canh gác cũng nghe (nghe để hiểu và nghe để báo cáo cho sếp căng) chớ không phải là tôi chỉ nói với năm ba anh em nòng cốt mà thôi. Những ý kiến căn bản của tôi về chiến tranh Nga-Đức, hôm nay, ở nhà Bảy Trân, vẫn không thay đổi, cho dù lúc này quân Đức phát xít đánh thẳng qua tới “quả tim” của Liên Xô là lưu vực sông Volga, hướng về vùng Caucase. Đúng vào thời điểm đầu năm 1942, trong lúc Hồng quân Liên Xô còn đang thua liểng xiểng, trừ một số trận đại thắng trước cửa ngõ thủ đô Moscou, trong lúc quân Đức còn tiến mạnh khắp nơi nhất là ở phía Nam, thì tôi vẫn nhìn chiến cuộc với một cặp mắt lạc quan và tôi cố truyền cái lạc quan đó cho các đồng chí tin rằng nếu bi quan về chiến trường Liên Xô thì càng bi quan về tình hình cách mạng Việt Nam, mà nếu bi quan thì đừng mong gì vực dậy các đồng chí còn sống sót sau năm 1940, để họ hợp tác với mình xây dựng lại đảng bộ Nam Kỳ.
Tôi tin chắc rằng Liên Xô sẽ thắng, Đức Hitler sẽ thua, những cuộc bại trận cho tới nay, dù nặng nề lắm, cũng là tạm thời mà thôi. Tôi có mê tín chăng? Không! Tôi tin tưởng có căn cứ, có lập luận. Tôi không “lạc quan tếu” như có người bảo.
Vì lẽ gì mà chắc Liên Xô sẽ thắng? Sự giải thích của tôi, ở Phú Lạc cũng như ở Tà Lài, dựa vào các yếu tố vững vàng sau đây:
Thứ nhất
Đất Liên Xô rất rộng cho phép Hồng quân, khi núng thế ở biên giới và ở những trận đầu, có thể rút lui chiến lược, bảo toàn lực lượng chủ chốt, vừa rút lui vừa tiêu diệt sinh lực địch ở tiền tuyến và ở sau lưng địch. Quân Đức vào đất Liên Xô càng sâu thì sức mạnh dù đông vẫn sẽ bị dàn mỏng, tiếp tế liên lạc càng khó tuy rằng ngày nay địch có xe tăng và máy bay chớ không phải đi bộ, đi ngựa như thời Napoléon nữa. Đến lúc nào đó, khi quân Đức tổn thất nhiều và mệt mỏi lắm thì Hồng quân Liên Xô sẽ phản công và sẽ đẩy quân Đức trở lại biên giới và xa hơn nữa. Naponéon đã thua là vì thế, Hitler sẽ thua cũng vì thế. Rút lui chiến lược không phải là thua trọn, mà để chuẩn bị tổng phản công vào lúc thuận tiện. Tiềm lực của Liên Xô rất lớn đã được xây dựng ở vùng Oural và sau Oural, Liên Xô có sức đánh lâu dài. Đức Hitler không có sức đánh lâu dài. Đánh lâu dài thì Đức chắc thua. Chưa kể rằng thời tiết lạnh lẽo của Liên Xô xưa đã là một kẻ thù lớn của quân Napoléon, nay cũng còn là kẻ thù không nhỏ của quân Hitler.
Thứ hai
Từ khi quân Đức đánh Liên Xô thì Anh, Mỹ trở thành đồng minh của Liên Xô. Anh, Mỹ quả có bị Nhật đánh cho những đòn trời giáng, nhưng Anh, Mỹ vẫn là bá chủ trên mặt biển; Anh, Mỹ tuy chậm trễ một cách có ý thức (để cho Liên Xô bị thiệt hại càng nhiều càng hay) nhưng cuối cùng thế nào Anh, Mỹ cũng phải mở mặt trận ở Tây Âu, ví dụ như ở Pháp. Nhật đã dồn hết sức đánh Mỹ, Anh ở Thái Bình Dương và Đông Nam châu Á, bị mắc kẹt cứng ở Trung Quốc, Nhật không còn sức để tiến công Liên Xô ở Viễn Đông; vả lại nghe nói lực lượng Liên Xô ở Viễn Đông đủ mạnh. Vậy về lâu, chưa về dài chính là Đức chịu đựng không nổi, nhất định sẽ thua.
Các đồng chí Phú Lạc trông mong được như vậy, trông mong Liên Xô thắng, mà họ chưa tin hẳn; họ chờ xem. Sự thắng thua giữa Đức và Liên Xô nếu không được quyết định ở Moscou thì sẽ quyết định ở sông Volga… Ở một xóm làng Nam Kỳ làm sao mà chắc chắn được? Bảy Trân nói rằng nếu Liên Xô thua trận, Hitler thắng, thì Trân khuyên tôi sẽ về làng quê cày ruộng như anh ấy đang làm.
Vấn đề thứ ba là một vấn đề tuy lớn mà dễ giải quyết. Vấn đề gì? Một ách thực dân Pháp, ta còn không đánh đổ nổi. Bây giờ tới hai ách Pháp và Nhật, Nhật dung dưỡng Pháp, Pháp làm hậu cần đắc lực cho Nhật, cả hai Pháp và Nhật thống trị Việt Nam thì ta có sức nào đánh đổ nổi Pháp và Nhật? Chế độ thực dân, cuộc đời nô lệ kéo dài tới chừng nào? Hay là số kiếp của nước ta, dân ta phải như thế? Cách mạng làm sao mà thành công được? Một thứ tư tưởng “số mạng” tràn ngập! Khá bi đát. Cả trong đồng chí chớ không chỉ trong dân Nam Kỳ mà thôi.
Hồi tôi ở Tà Lài, vấn đề này chưa được đặt ra; bây giờ (1942) Pháp ở Đông Dương đã thuận cho quân Nhật vào đóng ở khắp những nơi nào Nhật thấy cần. Vào Đông Dương, Nhật cốt để một mặt tiến công Tây Nam Trung Quốc, một mặt tiến đánh Anh, Hà Lan ở Nam Hải.
Ban đầu thực dân Pháp ở Đông Dương không chấp nhận để quân đội Nhật vào Đông Dương, bắt đầu là vào Bắc Kỳ để ngăn chặn việc tiếp tế của Trung Quốc bằng con đường xe lửa Hải Phòng - Vân Nam như bấy lâu nay. Xung đột Pháp- Nhật nổ ra ở Lạng Sơn, quân Pháp thua chạy cong đuôi. Pháp thấy không đủ sức chống cự với Nhật mạnh hơn gấp mấy lần, nên chúng phải nhượng bộ với Nhật, để quân Nhật vào đóng trên toàn cõi Đông Dương. Còn Nhật thì thấy rằng nếu duy trì chính quyền thực dân Pháp thì lợi cho chúng hơn là loại trừ Pháp; Pháp sẽ đóng vai bảo đảm an ninh và bảo đảm hậu cần, cung cấp lương thực, tiền bạc, nguyên liệu, nhân công, trong lúc đó Nhật Bản dành toàn lực để tiến hành chiến tranh, mà trong một thời gian không ngắn Pháp đâu dám chống lại Nhật, nếu chống lại thì sẽ bị diệt ngay. Pháp lại muốn nhẫn nhịn, nghe nói có “thầy dùi” Việt Nam khuyên Pháp bắt chước Câu Tiễn nhằm duy trì chế độ thực dân Pháp cho đến ngày kết thúc chiến tranh. Cả Nhật lẫn Pháp đều cho rằng chế độ hai ông chủ (thực dân và quân phiệt) đó có thể làm cho cách mạng Đông Dương không bùng lên được.
Nhưng hai con chó ăn một miếng mồi, có ngày cắn nhau. Lại là chó đói nữa. Sự hợp tác Pháp-Nhật chỉ có thể là tạm thời. Giữa Pháp và Nhật, càng ngày càng nhiều mâu thuẫn. Chúng tất yếu sẽ đi đến xung đột nhau. Pháp trước sau gì cũng sẽ làm tay sai cho đồng minh Anh, Mỹ, chống Nhật. Nhật trước sau gì cũng phải gỡ cái gai dưới bàn chân, gạt lưỡi dao găm kề sau lưng trong lúc đương đầu với Anh, Mỹ. Có thể thấy trước rằng sớm muộn sẽ có ngày Nhật lật đổ Pháp, và Pháp nhất định bị tiêu diệt nhanh. Khi ấy chỉ còn có một ách ngoại bang, ách của Nhật, mà Nhật thì không quen thuộc Đông Dương bằng Pháp. Trong trường hợp Đồng minh Nga, Anh, Mỹ thắng trục Đức, Ý, Nhật thì điều kiện sẽ trở nên thuận lợi cho cách mạng Đông Dương. Các đồng chí Phú Lạc dường như dễ dàng chấp nhận lập luận của tôi. Về sau nghĩ lại tôi cho rằng sau khi vượt ngục Tà Lài, với lần ra quân đầu tiên, đã có chính kiến xác đáng nên đã phá tan những nghi ngờ, thất vọng đối với tiền đồ của cách mạng. Ít nhất là về mặt lý thuyết, tư tưởng. Tôi biết rằng ở Chợ Lớn, Sài Gòn, Gia Định, Bảy Trân quen biết nhiều đồng chí. Nội bà con xa của Bảy Trân đã có trên một chục đảng viên rồi. Trước kia Bảy Trân đi bán dầu cù là với Nguyễn An Ninh, quen biết rộng ở lục tỉnh, cho nên, các ý kiến của tôi chắc chắn sẽ được lan truyền ra rộng; lần sau tôi về Phú Lạc thì miếng đất như đã cày sẵn.
Đi Xảo Bần, U Minh
Lên Đà Lạt, được mấy tháng cuối năm 1941, và gần như hoàn toàn không có ý định công tác gì hết, chỉ lo ẩn náu, tuy tôi có gặp gỡ Năm Luông và Năm Luông sẽ sớm hoạt động trở lại, nhưng đó chỉ là gặp gỡ tình cờ thôi. Bảo toàn tính mạng, cho khỏi bị bắt lại, nếu được, là thành công, là gìn giữ được một chút vốn cho Đảng cho dân. Tôi thuộc vào số người không đánh giá thấp, không trách móc những đồng chí, những người trước lãnh đạo, như anh Khiêm, anh Tây các anh ấy sớm “ẩn náu” từ chiến tranh thế giới mới nổ ra (1939) cho đến Nhật đảo chánh Pháp (1945). Những anh em đó giữ được tính mạng của mình, là giữ được một món của quý của cách mạng, miễn là đến thời kỳ cách mạng nổi lên, những anh em đó có mặt thì được rồi. Có lúc đơn độc quá tôi cũng trách, nhưng lúc nào tôi cũng quý những chiến binh đã được rèn luyện trong mười năm đấu tranh (1930-1940). Mấy tháng ở Đà Lạt, tôi ẩn náu để rồi lại xuất hiện,
chưa hoạt động để rồi hoạt động có hiệu quả.
Trân thu xếp cho tôi về U Minh, Xẻo Bần ở Rạch Giá.
Lần này tôi đi Xẻo Bần là cốt, trong khi còn ẩn náu, đặt một số liên hệ công tác, tiếp tục cái việc đã làm ở Phú Lạc mà tôi gọi là “sạ lúa”, là “gieo khô”, nghĩa là rải giống xuống ruộng đã cày mà chưa có nước, tức là tuyên truyền giáo dục, xung quanh mình và trong một số tỉnh xa gần, tìm bắt liên lạc mà tạm thời chưa lập thành tổ chức.
Tôi muốn ẩn náu ở Đồng Tháp Mười quê hương tôi (Tân An) để gần với Sài Gòn. Nhưng Bảy Trân cho rằng U Minh (Rạch Giá) là nơi ẩn náu kín đáo hơn. Anh ấy đang “giấu” ở U Minh một số đồng chí đã từng cầm vũ khí hồi năm 1940, cho tới nay được an toàn. U Minh xa Sài Gòn hơn là Đồng Tháp Mười. Địch biết rằng sau năm 1940, nhiều chiến sĩ khởi nghĩa ở Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho rút vào Đồng Tháp Mười, nó lùng sục vùng này dữ lắm. Nghe nói ở Thủ Thừa, Mộc Hoá, còn một toán du kích võ trang hoạt động nên địch lùng sục dữ lắm. Còn ở Hậu Giang gần như không có khởi nghĩa hay chỉ khởi nghĩa Hòn Khoai, nên việc lùng sục của địch không khẩn trương, không liên tục bằng ở Tiền Giang. Các đồng chí Phú Lạc đề nghị tôi đi Xẻo Bần, ở đó có mặt năm, bảy anh em hết sức tin cậy, có thể cùng nhau tự vệ và có thể đào tạo lý luận thành cán bộ giỏi. Tôi bằng lòng ngay. Đi U Minh có thể, bắt liên lạc với Tây (Nguyễn Văn Tây tức Thanh Sơn), Khiêm (Ung Văn Khiêm), Bí thư Xứ uỷ những năm 1930-1931, để sau này tổ chức lại một Xứ uỷ có uy tín cao; Tây, Khiêm đã “ẩn” ngay từ khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, lúc Pháp bắt đi trại tập trung rất nhiều người mà nó đánh giá là nguy hiểm. Các anh “biến” trước khi Pháp hạ thủ. Kịp thời hơn tôi.
Tôi đi theo ghe mắm của cô Tám Tý là bà con cô cậu với Bảy Trân. Cô Tám Tý đáp ô tô đi Rạch Giá. Tôi ngồi trên một chiếc ghe rổi đầy lu mái trống, có bốn người chèo mà hai anh là chiến sĩ khởi nghĩa năm 1940; trong túi tôi bây giờ có nhiều tiền; các bạn chèo đều có đầy đủ giấy tờ hợp lệ. Chuyến đi năm ngày yên ổn, cứ theo nước ròng, nước lớn và gió chướng mà tiến tới.
Xẻo là một cái rạch nhỏ. Xẻo Bần là một cái rạch có nhiều cây bần mọc hai bên; Xẻo Rô là một cái rạch có rất nhiều cây ô rô ở hai bên mé. Muốn đi tới Xẻo Bần thì phải qua thị trấn Rạch Giá rồi qua Xẻo Rô. Rạch Bần thuộc U Minh Thượng. Xẻo Bần là một vùng mới khai phá, trên là rừng U Minh mênh mông, dưới là biển cả hiền hoà, giữa là ruộng và đồng cỏ ngút tầm mắt. Ruộng đồng không có bờ mẫu, làng xóm không có đường đá, đường đất gì hết, người ta đi lại bằng xuồng ba lá mà gần như nhà nào cũng có. Rừng đầy chim, nhất là cò vạc; nhiều đến nỗi có tới hàng trăm con một bầy; Xẻo Bần có hàng chục bầy cò vạc. Đồng ruộng cũng nhiều cá tôm, bơi xuồng dưới Xẻo Bần thấy như là cá nuôi ở trong ao cá. Rắn cũng thật nhiều và thật rẻ, bốn năm hào một con rắn hổ mang đen xì bốn năm người ăn không hết. Xẻo Bần chỉ có một địa chủ, kỳ dư, gần hết nhân dân là nông dân tá điền hay làm ăn tự do, từ tứ phương đến, mà phân nửa là “dân lậu”, trốn thuế, trốn nợ, không giấy tờ hợp pháp (giống như bọn tôi). Họ nghèo lắm. Xẻo Bần chỉ có hai ba nhà ngói. Còn phần lớn toàn là chòi tranh nhà lá, cũng gọi là “nhà đạp”. Nhà đạp là chòi tranh vách lá không có vườn tược xung quanh, gia đình sống về nghề cá mắm, cấy thuê gặt mướn; đủ ăn thì ở, thiếu ăn hay mắc nợ trả không nổi thì “đạp” cái chòi tranh vách lá kia, rồi vợ, chồng, con cái, gà, vịt, nồi niêu, hũ gạo, xuống xuồng, xuống tam bản, chống chèo đi nơi khác, không biết trước là nơi nào. Một phần khá đông dân Xẻo Bần là như vậy, nên tôi khá yên tâm; có ai biết rằng mình cũng là một thứ “dân lậu” đâu? Lính quận lại ít khi đến Xẻo Bần, và nếu chúng có đến thì từ đầu xẻo đến cuối xẻo, người ta biết ngay để đề phòng. Vả lại, lính quận về làng để kiếm vài con gà, lít rượu, chớ cần gì kiểm tra giấy tờ, kiểm tra sao xuể, kiểm tra để làm gì?
Mua góp đầy ghe mắm rồi, Tám Tý về Sài Gòn bán mắm. Tụi tôi năm đứa, “dân lậu”, xoay qua mướn một trăm công[7] ruộng của ông Cả, cha chồng Tám Tý, để cấy cày cho qua ngày. Tôi cất hai cái chòi, một cái ở ngoài ruộng bên cạnh rừng tràm. Một cái trong rừng tràm. Ổn thì ở ruộng, động thì vào rừng. Tôi và ba đồng chí vừa làm ruộng, vừa mở lớp huấn luyện, còn Châu Văn Giác thì tôi phái đi các tỉnh Hậu Giang để gặp một số đồng chí trước đây đã từng là cán bộ lãnh đạo, để nắm tình hình tư tưởng của họ ra sao, rồi cùng họ giải đáp ba vấn đề mà tôi đã trình bày ở Phú Lạc. Trước khi lâm bệnh, Giác đã đi Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, Vĩnh Long và dự định đi Nam Vang nữa. Giác rất chú ý nghiên cứu vấn đề đạo Hoà Hảo, bắt liên lạc với Nhung (Long Xuyên), Cử (Sa Đéc), Minh Thẹo (Vĩnh Long), tính đi gặp Tây, Khiêm ở đâu chưa rõ.
Làm tá điền cho ông cả thì mình xem như được bảo vệ một phần, vì lính quận nào dám vào quấy nhiễu đồn điền của ông ấy? Vả lại mình ở bìa rừng, chống sào nhảy qua một con kinh hẹp thì an toàn rồi. Bài vở huấn luyện giống gần y như bài vở ở Khám Lớn: tôi thuộc lòng hơn dân nhà quê thuộc Lục Vân Tiên; nay được nâng lên, và khác ở tình hình hiện tại và nhiệm vụ cần kíp. Ăn uống thì gạo sẵn, muối sẵn, chỉ phiền một cái là nấu bằng nước phèn sông rạch lắng trong lu nhỏ; còn thịt cá tôm thì hết sức dễ kiếm: đặt năm ba cái “vó”, cái “lọp” nho nhỏ xuống ruộng, xuống kênh có thể bắt cả ký lô cá tôm; thiếu thịt thì vào rừng tràm nửa giờ đã có thể lượm về mấy chục trứng, có khi hàng chục cò con chưa lông cánh, tha hồ mà nhâm nhi. Mấy tháng làm tá điền ở Xẻo Bần, Rạch Giá cũng tựa như mấy tháng làm thợ hồ ở Đà Lạt, tôi có dịp sống đời sống của người dân lao động trong thời chiến tranh. Nông dân khổ hơn công nhân nhiều. Bà con nghèo quá. Người đi làm ngày thì tiền công mỗi ngày cao lắm là một cắc bạc; tiền công cấy lúa còn rẻ hơn là phát cỏ. Quần áo rách rưới. Có quần áo rách đã là may; phân nửa người đi làm mướn mặc bao bố tời hay mặc bao bàng; bao bàng, bao bố tời thay cho quần áo vải. Kiếm gạo ăn đủ no thì dễ, kiếm được manh áo lành thì rất khó. Trong khắp đồn điền ông Cả tôi thấy tá điền, số người làm mướn ít ai đóng nổi cái giấy thuế thân. Hầu hết những bà con làm thuê, làm tá điền đều bán “lúa non” nghĩa là chưa tới mùa gặt, lúa còn xanh thì đã bán lúa mình sắp gặt để đong gạo. Cho nên, lúa chín, gặt xong, ít ai còn lúa để làm mùa tới. Gặt xong thì xoay ra bắt cá, làm mắm. Nghèo thì nghèo vậy chớ trong xóm thì cờ bạc lu bù, cuối cùng chỉ có chủ chứa gom tiền, còn người cờ bạc thì rốt cùng ai cũng cháy túi cả.
*
Chúng tôi tính rằng ở Xẻo Bần lâu (hay bất cứ ở nơi nào) thì dễ bị lộ. Cho nên lúa ba trăng chín, gặt hái xong, bọn tôi dời đô xuống vùng rừng “Thứ mười một”, tôi bỏ tiền mặt của vợ tôi cho sang tên mười mẫu trong một cái đồn điền thơm rộng mấy trăm mẫu, sang rẻ lắm, vì lúc ấy trồng thơm không lời; giá thơm hạng nhất chỉ một đồng một chục có đầu. Thì hoà vốn là may. Mà tụi tôi đâu có tính lỗ lãi gì, chỉ muốn được an toàn. Tôi chọn mười mẫu ở trong sâu nhất, sát bìa rừng để phòng bất trắc thì rút lui có trật tự. Rừng ở Xẻo Bần là rừng nước, rừng ở Thứ mười một, vùng đồn điền dứa, là rừng khô. Anh Mười Nhung, người Chợ Lớn làng Bình Trị (Bà Hom) bị xử tử vắng mặt, lo việc cắt thơm, bán thơm. Sớm mai tụi tôi mang gùi sau lưng, tay cầm lưỡi mai cán dài để thu hoạch thơm chín, trái nào bị chuột khoét hay chim mổ thì trái đó ngon, để dành ăn. Sáng, làm việc tới độ chín giờ thì rút vào rừng tràm, rừng choạy mà học tập huấn luyện. Lẩn quẩn hết mùa khô. Đã cuối năm 1942, sắp sang năm 1943. Báo từ Sài Gòn xuống tới chậm. Dù sao tôi không đói tin. Trên thế giới chiến tranh đổi chiều hướng. Quân đội phát xít Hitler tổn thất rất lớn ở Stalingrad, Hồng quân Liên Xô sẽ tổng phản công trên các mặt trận. Bên Viễn Đông - Thái Bình Dương, quân đội Nhật khựng lại và bắt đầu thua ở Tây Nam Thái Bình Dương, ở Miến Điện.
Thế là sự đoán trước của tôi bắt đầu thành sự thật.
Chắc chắn tình hình này sẽ càng ngày càng thuận lợi cho việc tập hợp lại lực lượng, gây dựng lại hệ thống cơ sở của Đảng. Sắp hết cơn bĩ cực; đang tới kỳ thới lai. Tôi quyết định về Sài Gòn, để mười mẫu dứa lại cho Mười Nhung săn sóc, muốn sang nhượng cho ai tùy ý. Trời đã rót hạt sương xuân. “Lúa sạ” sắp mọc xanh đồng.
Chú thích của người biên tập
7 Công: 1000 mét vuông, 100 công là 10 hecta (mẫu tây, Nam Bộ quen gọi là mẫu)
(Source: Forum)
Xem online : Kỳ sau