TỔ CHỨC LẠI XỨ UỶ (kỳ 2)

Vấn đề tập hợp lực lượng

Vấn đề tập hợp lực lượng để đi tới khởi nghĩa cách mạng là vấn đề rất lớn trong việc xác định đường lối sau khi đã rõ đối tượng tính chất của cách mạng. Nói giải phóng dân tộc, giành độc lập, các thời kỳ, các tổ chức, các vị yêu nước đều nói; nhưng tới nay thì chưa ai làm được. Khởi nghĩa Yên Bái 1930, khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, đều biểu hiện ý chí giải phóng dân tộc, nhưng đều thất bại; một trong những nguyên nhân lớn của sự thất bại là đã chưa tập hợp đủ lực lượng để làm cách mạng. Nam Kỳ 1940 tập hợp được lực lượng nhiều lần hơn Yên Bái 1930, mà cả hai đều thiếu; Nam Kỳ khởi nghĩa, ngay khi nhìn ở tầm địa phương, cũng là một cuộc nổi dậy với lực lượng tập hợp còn xa mới đủ: công nhân lao động thành thị chưa nổi lên, không có binh lính nổi lên, đa số các quận huyện không có nổi lên và ngay nông dân ở các quận huyện có khởi nghĩa cũng chỉ một số ít cầm vũ khí đánh giặc Pháp. Vả chăng, trong một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, nếu chỉ có công nông binh trong tổ chức của Đảng nổi lên thì một sự tập hợp lực lượng như thế vẫn còn hẹp hay là chưa đủ rộng lớn cần thiết. Xứ uỷ chúng tôi nhận định như vậy. Nhận định như vậy, quyết không phải là “chê” các đồng chí lãnh đạo khởi nghĩa 1940, nhận thấy khuyết điểm ấy là để xác định rằng muốn khởi nghĩa thành công phải có không chỉ hàng vạn mà hàng ức triệu người nhất tề nổi lên mới được.

Từ nay cho đến khi có thời cơ khởi nghĩa, phải làm cho kỳ được những gì trong trách nhiệm tập hợp lực lượng?

– Phải chú trọng đặc biệt vào công nhân, người lao động; chú trọng vào công chức của chính quyền ở thành thị, trước hết là ở Sài Gòn đầu não; thật sự biến các xí nghiệp lớn và các công sở chính làm “thành trì của cách mạng”, giống như đặt quả bom, đặt trong bụng của địch nhân, như đóng cái đinh vào đầu của chúng; nếu quả ta tính đánh địch một đòn chết tươi thì phải đánh thẳng vào bộ não, trái tim của chúng; có thể nghĩ ngay bây giờ là ngày mai, khi nổi lên khởi nghĩa, ta sẽ chiếm các công sở Sài Gòn chủ yếu bằng lực lượng cách mạng ở trong công sở đó. Vậy từ bây giờ, ta phải dồn phân nửa sức mạnh của đảng bộ vào công tác trọng tâm này, để không bao giờ lặp lại cái dở tai hại của tháng 11 năm 1940, là nhiều nơi ở nông thôn nổi lên mà Sài Gòn thì lại yên tĩnh.

- Phải thu hút đông đảo nông dân cho bằng và nhiều hơn hồi 1930-1931, 1937-1938, đặc biệt là, ở mỗi tỉnh, ta phải tập trung nhiều cán bộ giỏi hoạt động tổ chức tuyên truyền ở các quận huyện gần châu thành của tỉnh ấy là chính chớ không phải dàn đều; cũng ra sức hoạt động tổ chức tuyên truyền ở dọc theo các đường giao thông huyết mạch. Trong toàn bộ Nam Kỳ thì nông vận phải chú trọng riêng các tỉnh xung quanh Sài Gòn, làm sống lại và mạnh hơn lên cái “vành đai đỏ” từng nổi tiếng để có ngày tiếp ứng mãnh liệt cho lực lượng khởi nghĩa của thành phố.

- Phải phát huy truyền thống binh vận và nắm cho kỳ được số lính khố xanh ở Sài Gòn, Chợ Lớn và mỗi tỉnh. Từ ngày Pháp đầu hàng Đức và dạ dạ vâng vâng trước Nhật thì công tác binh vận có nhiều cơ hội thành công hơn trước. Lênin đã làm khởi nghĩa ở Petrograd với nhiều đơn vị lục quân và hải quân của chính quyền tư bản. Năm 1940, các báo cáo về kết quả binh vận là không đúng thực tế. Chúng tôi biết rõ tầm quan trọng của binh vận, nhưng khác xa với Quốc dân đảng, chúng tôi cho rằng chỉ khi nào chúng ta tập hợp được một lực lượng công nông thật lớn thì binh lính mới mạnh dạn đứng về phe cách mạng.

– Phải đặc biệt chú trọng tập hợp lực lượng thanh niên ở thành thị và nông thôn, không phân biệt là thanh niên thuộc thành phần giai cấp nào. Nếu ví Đảng là một con người thì công nhân và thanh niên là tay mặt tay trái của con người đó. Cả Pháp lẫn Nhật, mấy năm nay đã chú trọng chinh phục thanh niên. Ta phải cản trở, đánh bại những cố gắng ấy của chúng. Mấy năm nay, cũng thấy nảy nở ra ở Sài Gòn và nhiều tỉnh một phong trào sinh viên, học sinh chưa xác định rõ được tính chất chính trị, mà điều chắc chắn nhất là Đảng ta không được để cho tụi tay chân của Pháp, của Nhật lôi kéo thanh niên; ta phải quyết tâm giành thanh niên với chúng. Nhiệm vụ này chỉ có thể hoàn thành tốt nếu Đảng ta tạo được một sức mạnh lớn công nông liên minh có khả năng “lôi kéo” các giai cấp trung gian và nếu Đảng ta có một số cán bộ đại trí thức có tiếng tăm và nhân cách. Chỗ này lâu nay là một nhược điểm lớn của Đảng, ta cần phải khắc phục nhanh chóng. Công tác này rất khó mà không thể xem nhẹ.

– Đặc điểm chính trị xã hội Nam Kỳ là có nhiều chánh đảng và giáo phái lớn; có cả chánh đảng hoạt động dưới hình thức tôn giáo. Phải điều tra kỹ tình hình đảng phái và giáo phái ở Nam kỳ, xem xét khả năng “làm đoàn” trong một số phái có đông quần chúng, phân hoá họ và cảnh tỉnh những cánh nào có thể cảnh tỉnh, đoàn kết với họ. Công tác này khó khăn và tế nhị, cần giao cho một số ít cán bộ có năng lực, có tư cách. Khi cần, ta có thể bàn đến khả năng một số ít đồng chí có năng lực, có tư cách đứng ra trợ lực, hướng dẫn cho những người yêu nước nào đó thành lập chính đảng cách mạng quốc gia, dân chủ, góp phần đấu tranh giải phóng dân tộc.

Vào năm 1943 trở đi, sau khi chiến dịch đại thắng của Hồng quân Liên Xô tại Stalingrad thì các đồng chí cộng sản nằm yên hay ẩn núp từ 1940, nay bắt đầu được vực lên về mặt tinh thần; số anh chị em đó còn nhiều; có thể và cần phải đưa họ trở lại hoạt động cách mạng với Xứ uỷ, đó là điều kiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ “tập hợp lực lượng”. Tập hợp lực lượng nhân dân tất nhiên phải bắt đầu và đi song song với tập hợp lực lượng các chiến sĩ cộng sản bị tan tác sau cuộc khởi nghĩa thất bại 1940.

Hồi cuối năm 1943 đó, khi vạch ra cho mình một đường lối cách mạng thì tôi và các bạn của tôi chưa đặt ra và bàn luận vấn đề lập “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế” mà Hội nghị Trung ương 1939 ở Bà Điểm đã đặt ra. Tôi chưa biết có nghị quyết lập Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh) của hội nghị Trung ương lần thứ VIII, năm 1941, ở Cao Bằng. Cho nên chúng tôi tổ chức Đảng và hội, để tập hợp lực lượng, y như hồi Đảng Cộng sản mới ra đời; cũng công hội, nông hội như trước chớ không phải “công nhân cứu quốc”, “nông dân cứu quốc” v.v… (sau tôi sẽ có dịp trở lại vấn đề này). Còn về việc lập “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế” thì Nghị quyết VI không nói rõ sẽ tổ chức ra sao? Gồm những ai? hoạt động cách nào? Tôi nói với các đồng chí trong cuộc họp để bàn về đường lối cách mạng và những nhiệm vụ cần kíp rằng, khi nào năm, sáu nhiệm vụ lớn (đã kể trên) được thực hiện có kết quả thì khi ấy mới có điều kiện để lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế ở Nam Kỳ; chớ bây giờ thì chưa có thể lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế được; nếu bây giờ lập mặt trận thì mới chỉ có hình thức, chớ chưa có thực tế bởi lẽ ta chỉ có Đảng ta và các tổ chức công nông thanh phụ còn yếu ớt của chúng ta, cái đó chưa phải là mặt trận. Mặt trận theo đúng ý nghĩa của nó phải là một liên minh chiến đấu theo một chương trình hành động chung giữa các chính đảng, các đoàn thể, các giai cấp, các sắc tộc, các tôn giáo, các thân sĩ tiêu biểu. Nay (1943, 1944) ta chưa có điều kiện để lập mặt trận; riêng Đảng Cộng sản và công hội, nông hội chưa thành mặt trận; liên minh công nông là cơ sở của mặt trận dân tộc thống nhất nhưng chưa trở thành tổ chức mặt trận rộng lớn mà ta hướng tới.

Vấn đề tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền

Viết đến đây tôi muốn để ít thời giờ để kiểm điểm và tự kiểm điểm về vấn đề: Tại sao Nam Bộ không sớm tổ chức Việt Minh? Tại sao? Thời điểm đó tôi chưa nghe hai chữ Việt Minh. Tới tháng 7 năm 1945, tôi mới có chương trình điều lệ Việt Minh trong tay, thì làm sao hồi 1943,1944 có chủ trương theo đường lối của hội nghị Trung ương VIII được? Mà ví phỏng trước hay trong các cuộc hội nghị đại biểu ở Phú Lạc, Chợ Gạo tôi đã nắm được chương trình điều lệ Việt Minh mà chưa được giải thích thật kỹ, chắc gì tôi không “thắc mắc” về một số điểm trong đó có việc biến đổi các công hội, nông hội thành “hội công nhân cứu quốc”. Tuy vậy tôi sẽ tán thành tổ chức “Hội thanh niên cứu quốc”, “Hội văn nghệ cứu quốc”, “Hội phụ nữ cứu quốc”. Còn những tổ chức mang tính chất giai cấp của công nhân, nông dân (công hội, nông hội) thì bản chất của nó vốn đã đậm đà chất cứu quốc rồi, bản chất và nhiệm vụ của nó còn cao hơn là cứu quốc, nên tôi nghĩ rằng việc gì phải lấy một cái tên khác tiêu biểu chỉ cho cách mạng phản đế? Mặt trận Việt Minh mà chúng tôi sẽ tổ chức ở Nam Kỳ vào giữa năm 1945, sẽ bao gồm: Đảng Cộng sản, Tổng Công đoàn, Thanh niên Tiền phong, đảng Tân Dân chủ, Cánh tả đảng Quốc gia (Cư sĩ tịnh độ), Cao Đài cứu quốc, hội binh sĩ yêu nước… không giống như điều lệ Việt Minh chính thức, cho nên khi đó, một số anh em mỉa mai gọi chúng tôi là “Việt Minh mới”, gọi chúng tôi là “Việt Minh mới” là không đúng lắm, nhưng cũng không phải là không duyên cớ! Sau này tôi còn nghe nói “Việt Minh thiệt, Việt Minh giả” nữa! Phiền phức quá! Mà tránh sao được khi đồng chí ở mỗi nơi đều ra sức tự động thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển, chớ không ngồi chờ.

Tôi nhớ rằng khi ấy các đồng chí ở Nam không mấy ai quan tâm thực hiện vấn đề Mặt trận. Trái lại thì anh em quan tâm đến vấn đề khởi nghĩa giành chính quyền. Khi ấy, sở dĩ, trong lúc Xứ uỷ Đảng mới khôi phục, anh em ai nấy đều quan tâm đến vấn đề khởi nghĩa, hẳn là vì ai nấy đều không thể quên cuộc khởi nghĩa thất bại năm 1940, dưới thời kỳ của Xứ uỷ do đồng chí Tạ Uyên lãnh đạo. Phải tránh vết xe đổ, nhiều đồng chí nói. Đòn đau 1940 hãy còn thấm thía lắm; nhưng hội nghị vẫn khẳng định với Trung ương VI (1939) và luận cương chính trị (1930) rằng không thể nào giành được độc lập mà không trải qua cuộc vũ trang khởi nghĩa (lúc bấy giờ cũng được gọi là “bạo động”). Khởi nghĩa, bạo động là thuộc vào đường lối cách mạng, là bộ phận quan trọng bậc nhất của một đường lối cách mạng.

Cuối
năm 1943, chúng tôi ở Nam Kỳ quan niệm như thế nào về khởi nghĩa, về “bạo động” cách mạng? Tôi đã nhiều lần ra sức thử tổng kết kinh nghiệm của cuộc khởi nghĩa 1940, rút những bài học lớn. Nay cuối năm 1943, ở các cuộc hội nghị Chợ Gạo, Phú Lạc, để “hoàn chỉnh” về cơ bản một đường lối cách mạng, ít nhất là tạm thời trong lúc chưa nối được liên lạc với Trung ương – tôi đã trình bày những ý kiến chủ đạo sau:

Thứ nhất là: ý kiến của Nghị quyết VI. Nghị quyết VI nói:

Muốn đi tới đánh đổ đế quốc, phải huy động dân chúng chống đế quốc chiến tranh, và kêu gọi lòng ái quốc chân chính, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc; phải biết gắn kết với những quyền lợi thiết thực của các tầng lớp nhân dân với quyền lợi dân tộc và kêu gọi thống nhất dân tộc. Cái tinh thần ái quốc và đòi thống nhất dân tộc, giải phóng dân tộc càng phát triển thì tinh thần phản đế càng mạnh mẽ. Mở rộng và nâng cao tinh thần dân tộc, làm cho mỗi người trong các giai cấp có ý thức về sự tồn vong của dân tộc và sự mật thiết của vận mệnh dân tộc với lợi ích cá nhân mình; đặt quyền lợi dân tộc lên trên tất cả các quyền lợi khác; thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp…

“Xoay tất cả phong trào đấu tranh lẻ tẻ vào cuộc đấu tranh chung, phản đối đế quốc chiến tranh, chống đế quốc Pháp và bè lũ, dự bị điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc”.

Như vậy nghĩa là giương cao ngọn cờ dân tộc, đi tới khởi nghĩa vũ trang. Hoàn toàn không vì khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại mà chọn con đường nào khác; không có con đường nào khác để giành độc lập dân tộc ngoài con đường dẫn đến khởi nghĩa, “bạo động” cách mạng. Mọi sự tập hợp lực lượng đều nhằm vào một trận thư hùng, một cuộc khởi nghĩa vũ trang quyết thắng, không có quyền bại.

Trong cuộc chiến tranh thế giới ngày nay, đế quốc Pháp ở Đông Dương rồi sẽ bị đế quốc Nhật lật đổ. Cuộc hợp tác ma quỷ Nhật-Pháp sẽ chấm dứt không sớm thì chầy. Rồi sau đó, phát xít Nhật hùng cường sẽ bị quân Mỹ, Anh, Trung Quốc đánh bại, việc nhất định phải đến, sẽ đến, chỉ có sớm hay muộn thôi. Chúng ta tin chắc rằng không phải là Nhật đánh đổ Pháp thì tự nhiên đem lại độc lập cho dân tộc ta và cho các dân tộc Đông Dương, cái độc lập đó cho dù có tuyên bố cũng quyết không phải là độc lập thực sự mà chỉ là hình thức thôi, giả mạo thôi; chúng ta không hề muốn cái thứ độc lập ấy. Chúng ta cũng chắc chắn rằng dù đồng minh Mỹ, Anh, Trung Quốc thắng Nhật cũng không trả lại độc lập cho dân tộc Việt Nam đâu, mà sẽ trả lại chủ quyền cho Pháp, hay nhiều nhất là họ đặt chế độ “uỷ trị” và giao lại cho Mỹ và một đế quốc nào khác. Ta phải nhận thức rõ rằng không đời nào có “bất chiến tự nhiên thành”, không có độc lập do ai ban cho mình; chỉ có độc lập do bản thân ta chinh phục mới thực sự là độc lập. Độc lập thật sự chỉ có thể giành được bằng khởi nghĩa vũ trang, bằng bạo động cách mạng. Một đường lối cách mạng phải khẳng định điều này, hoàn toàn trái với lời hứa hẹn của Nhật với các chính đảng và giáo phái theo chủ nghĩa Đại Đông Á. Cũng khác hẳn với kế hoạch “Liên bang Đông Dương” lừa bịp của Decoux.

Còn như hỏi: chừng nào mới khởi nghĩa, thì ta trả lời rằng: khi các điều kiện khách quan đã đủ, đã chín (hồi 1943,1944 chưa ai dùng chữ “chín muồi”) và khi tập hợp đủ lực lượng. Còn như lực lượng tập hợp chưa đủ, điều kiện khách quan chưa chín, mà cứ phát động khởi nghĩa, là manh động, là khởi nghĩa non, mà non thì thua. Khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11 năm 1940, là khởi nghĩa non, nên thất bại thấy trước.

Hôm đó, một lần nữa, tôi nêu ra cái sai lầm lớn của các đồng chí lãnh đạo khởi nghĩa Nam Kỳ. Tất nhiên tôi không trách Thường vụ Trung ương đã bị bắt gần một năm trước mà trách hai đồng chí ủy viên Trung ương còn sót (là anh Tần và anh Lưu) sao không kiên quyết ngăn cản Tạ Uyên và Xứ uỷ trên con đường bạo động non dẫn đến thất bại kia. Cuối 1940 đã không có thời cơ đủ chín cho khởi nghĩa, lại chưa có lực lượng đủ mạnh cho bạo động, mà cứ bạo động, khởi nghĩa là làm liều, nổi lên thì rất anh dũng mà thất bại thì rất lớn, không đáng có. Lần tới, ta phải làm khởi nghĩa theo khoa học và nghệ thuật Lênin, theo mẫu mực cách mạng tháng Mười Nga. Nói cho rõ hơn, tôi và các đồng chí của tôi không ưng ý với chủ trương khởi nghĩa bằng lực lượng du kích, bằng khởi nghĩa địa phương, bằng chiến lược “nông thôn bao vây thành thị”. Tôi thấy hồi 1940 Xứ uỷ Nam Kỳ chịu ảnh hưởng của Mao Trạch Đông, việc phát hành quyển “chiến tranh du kích” vào giữa năm 1940 nói rõ điều ấy. Bằng du kích làm sao mà giành chính quyền được? Phải làm khởi nghĩa cách mạng, một cuộc quyết chiến bằng bạo lực chính trị và bạo lực vũ trang kết hợp nổ ra trên đỉnh cao nhất của một phong trào quần chúng, mà địch dù thấy trước cũng không làm sao ngăn cản nổi, không làm sao trở tay kịp. Chúng tôi lại đinh ninh rằng một cuộc khởi nghĩa muốn thành công, phải là một cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc, không phải là một cuộc khởi nghĩa địa phương dù là một địa phương rộng lớn và có tầm chiến lược như Nam Kỳ. Có thể đoán trước rằng cuộc tổng khởi nghĩa sẽ nổ ra vào khoảng tàn cuộc của chiến tranh thế giới lần thứ hai, vào năm tháng nào khó mà đoán trước, song từ nay tới đo ta phải nỗ lực.

– Tập hợp lực lượng lớn nhất có thể được.
– Nối hệ thống tổ chức giữa Xứ uỷ với Trung ương và toàn Đảng.

Đại để, chúng tôi, Xứ uỷ Nam kỳ, vào cuối năm 1943, đã tự vạch ra một đường lối cách mạng như thế. Ngoài chúng tôi ra, lúc ấy ở Nam Kỳ không thấy có ai khác, không biết có nhóm nào khác vạch ra một đường lối cách mạng.

Ban Tuyên huấn của Xứ uỷ Nam Kỳ lập ngay kế hoạch phát hành một số sách “bỏ túi” (theo kiểu “cộng sản tùng thư” hồi 1933, 1934) để phổ biến những vấn đề thuộc đường lối mà Xứ uỷ đã vạch. Những quyển sách “bỏ túi” đầu tiên là quyển “Việt Nam trên đường độc lập”, “Rạng đông của một dân tộc” của Xuyên Vân Nhạn (tức là tôi) mà sau đó bị Trường Chinh[8] phê phán. Bộ sách bỏ túi này chú trọng công kích chủ nghĩa Đại Đông Á của Nhật và chủ nghĩa Liên bang của Decoux.

Từ cuối 1943, ở Nam Kỳ chúng tôi đã lập lại Xứ uỷ và Xứ uỷ ấy tự trang bị cho mình một đường lối chủ trương vận động cách mạng trong khi chờ đợi những chỉ thị của Trung ương Đảng. Những chỉ thị của Thường vụ Xứ uỷ cho Ban cán sự Sài Gòn trở thành một bộ phận cấu thành chủ trương đường lối của đảng bộ Nam kỳ.

Tôi trở lại Sài Gòn và từ nay tôi để gần hết tâm lực, trí lực vào hoạt động ở Sài Gòn và các tỉnh xung quanh Sài Gòn. Trên đường về lại Sài Gòn, tôi ghé thăm mẹ. Nhà tôi cách Tân Thuận Bình Chợ Gạo khoảng mười cây số. Từ năm 1941, tôi đã qua lại Chợ Gạo đến ba lần mà đều “tam quá kỳ lư bất nhập”[9].

Về nhà thăm mẹ

Chuyện lớn phải lo mà chuyện nhỏ đừng quên. Việc công là trọng, mà việc tư thỉnh thoảng cũng phải nhớ. Tôi hay nghĩ lẩn thẩn như vậy, khi ở chân trời góc biển, tôi luôn luôn nhớ đến mẹ, đến vợ, đến làng quê; nhớ lắm.

Từ lâu, 1930, tôi được liệt vào loại cán bộ mà thời ấy được người ta gọi là “thoát ly gia đình”. Khái niệm “cán bộ thoát ly gia đình” ở Việt Nam trước cách mạng cũng giống như khái niệm “cán bộ cách mạng chuyên nghiệp” (révolutionnaire professionnel) Lênin đã dùng khi Người viết sách “Làm gì?”. Lênin cho rằng, để xây dựng một đảng cách mạng nhất là trong điều kiện khủng bố trắng, phải có một loại đồng chí làm “cách mạng chuyên nghiệp” nghĩa là không làm nghề gì khác hơn là làm cách mạng, số đồng chí đó để hết thời giờ của mình vào hoạt động cách mạng. Bên Việt Nam những năm 1920, 1930 (cả hồi đầu những năm 1940 nữa) bọn tôi lấy cái ý mà không lấy cái từ của sách “Làm gì?”; nhưng trong phiên toà thực dân Pháp xử tôi năm 1935, khi quan toà hỏi: “Ông làm nghề gì?” thì tôi trả lời: “Làm cách mạng chuyên nghiệp”. Chớ không lẽ trả lời: “Tôi thoát ly gia đình”? “Thoát ly gia đình” để làm gì? Có thể là để làm cách mạng, có thể để làm bất cứ cái gì mà trong gia đình mình làm không được, không nhất thiết phải là làm cách mạng. Tuy vậy, tôi vẫn thích thú với khái niệm “thoát ly gia đình” mà anh em ta dùng thời đó, bởi vì khái niệm ấy, trong lịch sử xuất hiện của nó, đã có thời bao hàm một ý nghĩa triết lý, chính trị. Mãi đến sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ở Việt Nam còn nhiều gia đình mang nặng tư tưởng, tình cảm, tập tục Nho giáo phong kiến; chẳng những phần lớn là các gia đình thân sĩ theo đạo Khổng, Mạnh, Trình, Chu đều theo lối xưa như thế, mà ngay cả một số gia đình trung nông, viên chức, thương nhân cũng vậy. Tuổi trẻ thường bị ràng buộc nhiều lắm bởi cương thường Nho giáo đã thâm căn từ mấy chục đời rồi. Nhưng tuổi trẻ, nhất là tuổi trẻ có ít nhiều Tây học, thấy rằng mình cần bay nhảy tự do. Thanh niên Sài Gòn đã vỗ tay hoan nghênh Nguyễn An Ninh khi anh Ninh tại một cuộc mít tinh ở Nam Kỳ Khuyến hội học năm 1923, kêu gọi thanh niên hãy đi xa, đi thật xa nhà tổ phụ để tìm lý tưởng mới, đừng lẩn quẩn lại xó bếp gia đình chật hẹp và lạc hậu. Đó là cái lý vào những năm cuối 1920, người ta gọi là “thoát ly gia đình”, ý đó có nghĩa là chống lại tàn dư tư tưởng tập quán phong kiến, đi tìm chân trời mới. Nhưng ngay cả khi anh Ninh khi ấy cũng chưa chắc đã rõ lắm cái “chân trời mới” đó là gì. Đến khi Nguyễn Ái Quốc lập Thanh niên cách mạng đồng chí hội vào năm 1925 và Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) thì cái lý tưởng cách mạng đã rõ. Khái niệm “thoát ly gia đình” ra đời với nội dung mà Lênin đề ra trong sách “Làm gì?”: Đảng cách mạng chẳng những gồm đại đa số đồng chí là những người lao động tay chân và trí óc, vừa làm ăn bình thường, cầm búa, cầm cày, cầm bút, vừa để một phần thời giờ cho công tác tuyên truyền, tổ chức, hội họp, đấu tranh; Đảng Cách mạng còn phải có một số đồng chí dành hết quỹ thời gian của mình cho hoạt động cách mạng, các đồng chí ấy thường nhất là không ở tại nhà mình nữa, mà đi xa, nhiều khi đi rất xa, từ Bắc vào Nam, từ nông thôn ra thành thị, từ phố phường hay trường học, vào đồn điền, hầm mỏ, để tuyên truyền, tổ chức, đấu tranh, in phát báo bí
mật, làm bất cứ việc gì dù lớn dù nhỏ, dù an dù nguy mà Đảng cách mạng cần. Đó là những anh chị em “thoát ly gia đình”, làm “cách mạng chuyên nghiệp”. Loại cán bộ này trong Đảng Cộng sản đông tới hàng trăm. Tôi là một trong số đó.

Từ cuối năm 1930, tôi đã bắt đầu “thoát ly gia đình”, và trở thành người hoạt động “cách mạng chuyên nghiệp”.

Gia đình tôi không đến nỗi quá phong kiến lạc hậu, với tâm lý: “cha mẹ còn, con cái không nên đi xa”. Nhưng tôi vẫn phải thoát ly gia đình, trước tiên bởi vì nếu không “vào bí mật” thì không hoạt động cách mạng được, địch theo dõi sát quá và sẽ bắt giam tôi, bắt luôn cả những ai đi lại với tôi. Thú thật, nếu Đảng Cộng sản được quy chế hợp pháp hay nửa hợp pháp, tôi sẽ thích làm người “cách mạng chuyên nghiệp” mà không “thoát ly gia đình”. Hết ngày công tác tuyên truyền, huấn luyện, tổ chức, hết đợt hoạt động náo nhiệt và căng thẳng thì về nhà tìm yên tĩnh âu yếm với cha mẹ, vợ con, chẳng hơn là đất khách quê người, ăn trong bếp, ngủ dưới đất, nghe chó sủa đã phải đề phòng hay sao? Nhưng “thời thế thế, thế thì phải thế”. Từ cuối 1930 đến nay (hết 1943), tôi chỉ được sum họp với gia đình trước sau ba lần, cộng lại chừng hơn ba tháng. Cha tôi chết; con tôi chết; mẹ tôi già, tựa cửa trông tôi. Vợ tôi hiu quạnh, nước mắt ướt gối. Tôi nhớ nhà lắm chớ! Tim tôi đâu phải bằng đá? Vượt ngục Tà Lài từ đầu năm 1941, đến giờ hơn hai năm, gần ba năm, tôi chưa lén được về nhà lần nào. Chị tôi, vợ tôi có bí mật đi thăm tôi. Nhưng má tôi chỉ biết rằng tôi còn sống, mạnh giỏi, đang hoạt động cách mạng. Nay, nhân một chuyến đi họp ở Mỹ Tho, thấy tình hình cho phép. Tôi tạt qua nhà thăm mẹ. Tôi thèm hôn mẹ tôi và thèm được mẹ tôi xoa đầu như hồi còn nhỏ.

Thuở tôi còn học trường Tầm Vu, nhà tôi đông người lắm; tứ đại đồng đường: cha mẹ tôi, anh chị tôi, cháu gọi tôi bằng cậu, chú và con của con đầu lòng anh Năm tôi, chưa kể hai anh ở mùa, cầm cày, đập lúa, chăn trâu. Nhưng rồi dần dà, anh Năm, anh Bảy, anh Mười tôi ra riêng, mỗi người trấn một dãy ruộng; tới phiên chị Chín tôi cất nhà ở trong vườn. Vợ tôi vì không có chồng ở nhà nên về bên xã Phú Ngãi Trị với cha mẹ ruột, mấy tháng mới vô thăm tía má tôi một lần, mỗi lần tía má tôi được con dâu về thăm thì hai cụ như sống lại, ít hôm sau gạt nước mắt đưa con dâu ra cửa ngõ, trông theo mà càng buồn. Rồi tía tôi chết. Mẹ tôi còn chỉ có một mình. May có đứa cháu gái goá bụa về ở cùng tại nhà dưới. Nhà tôi bây giờ giống như một ngôi chùa không tượng Phật, chỉ có hai bà vãi tối tối đốt nhang, đánh chuông. Cả ngày cả đêm hầu như không có tiếng động nếu không có con Vện già sủa trăng hay điểm khách qua đường ngoài cửa ngõ. Hiu quạnh lắm. Buồn bã lắm. Bà con hàng xóm có người nói: “Tại chú Út đi đâu mất mới ra cảnh này”. Người khác bảo: “Ruộng vườn, nhà cửa, vợ trẻ, có gì cột được chân ông ấy đâu; làm trai phải vậy chớ sao? Nước mất mà nhà an thì cũng hiếm”. Ruộng nhà bị bán đi lần lần, không còn mấy, trừ ruộng hương hoả; nhưng nợ nần cũng được trang trải hết. Bồ lúa nhỏ đi mà vẫn đầy. Túi tiền cạn mà không khổ. Má tôi, chị tôi, cháu tôi đã sống được lại còn có thể chu cấp cho tôi sống mà công tác. Vợ tôi tần tảo, nuôi heo, chà gạo, làm tá điền cho ông Cụ, ăn chung mà làm riêng nên dư dả, không ai dám khinh miệt, đạo đức gương mẫu, dân làng kính nể, trong quê ngoài chợ ít ai bảo con trai bắt chước chú Mười vì gian lao quá, nhưng rất nhiều phụ huynh dạy con gái hãy theo gương cô Sáu, một tấm gương chung thuỷ vì nghĩa như Kiều Nguyệt Nga.

Trần Văn Giàu và gia đình thời còn trẻ (ảnh tư liệu Trầm Hương)

Khi mặt trời sắp lặn thì tôi đã băng đồng, từ kinh Chợ Gạo đi qua chợ Ông Văn, tránh lộ dây thép, tránh cả lộ me, không sợ lính xét giấy thuế thân, chỉ sợ gặp người quen. Trong mình tôi có thẻ thuế thân, trong túi cũng lắm tiền, lưng quần lận một cây súng lục đầy đạn, vai vác một cây đòn xóc có lủng lẳng một đôi dép, đầu đội nón lá, chân đi đất, quần áo xềnh xoàng như nông dân đi đồng. Ma nào mà biết rằng tôi là ông Giàu đi về thăm nhà? Vợ anh Hiển, người chợ Ông Văn, báo cáo cho tôi tình hình tuần tra ban đêm của lính đồn Ông Văn: “Chẳng có gì đáng lo, tụi lính đi kiếm ăn ở những sòng cờ bạc. Theo báo cáo mới nhất thì từ hơn một năm nay, làng lính không còn chú ý đến nhà tôi nữa vì đã chú ý nhiều năm mà chẳng thấy gì”.

Trời nhá nhem thì tôi đã qua khỏi chợ. Trở ngại xem như không còn. Cầu Đồn bây giờ không có đồn. Qua cầu rồi thì tới làng tôi; nhà tôi ở đầu kia làng, phải mất một giờ nữa mới tới. Vào thời điểm này, đồng đã khô vì lúa đã gặt xong. Tôi đi tắt, vừa để rút ngắn quãng đường, vừa để tránh gặp người. Thời đó, không ai ăn trộm lúa vì lúa quá rẻ, bán không được, chỉ có Pháp thu mua để cung cấp cho quân Nhật và để thay thế cho than đá đốt lò nhà đèn Chợ Quán Sài Gòn; tôi không gặp một ai trên đường đi. Gần tới vuông tre nhà tôi, tôi ngồi xuống để xem động tĩnh ra sao, trước hết để nhìn rõ mộ cha tôi; tôi mặc niệm hồi lâu. Cha tôi chết khi tôi còn bị đày ra đảo Côn Lôn. Chị Chín tôi có lần kể lại rằng trước khi tắt thở, cha tôi dốc tàn lực, vịn cột nhà đứng dậy, lần theo vách, vừa đi vừa kêu: “Ký ơi! Ký ơi! Con ở đâu không về với tía”. (Ký là tên tôi hồi tôi chưa đi học). Người nhà bà con ai cũng mủi lòng, dắt cha tôi trở lại giường. Như vậy là cái hình ảnh cuối cùng trong tâm trí cha tôi là đứa con bất hiếu này! Tôi nguyện lấy trung với nước mà làm hiếu với cha; chớ làm sao khác được? Nhớ lại lần tôi bị trục xuất từ Pháp về và hai lần tôi bị Pháp bắt bỏ tù về, cha tôi không hề rầy la tôi sao không lo công danh, sao không lo vợ con. Cha tôi không tham gia chiến đấu chống Pháp như ông nội tôi, nhưng Cụ dù có ruộng vườn cũng không hề ra làm hương chức. Cụ chỉ làm ông “tiên bái” lo việc cúng tế thuần làng; con trai lớn của Cụ là anh Năm tôi thì tham gia nghĩa quân Thiên địa hội năm 1916, Cụ không ngăn cản.

Ở quê, chín giờ tối đã khuya. Xóm làng ngủ hết. Đường không còn ai. Quan sát hồi lâu tôi không thấy động tĩnh gì, bèn vo quần bước xuống một cái cống đào tự bao giờ, tôi lớn lên đã thấy nó rồi; cái cống xẻ ngang bờ tre, cho nước sông lên, cho nước đồng xuống. Phải vạch ô rô để vào mương, leo lên tiếp mới vào nhà chị tôi ở góc vườn. Tôi vừa leo lên bờ thì, bất ngờ, một con vật gì lủi tôi: con chó; nó định sủa, nhưng rồi nó nín thinh, nó ngửi được mùi tôi, rồi liếm tay và vẫy đuôi lia lịa, kêu hự hự, mừng quýnh. Té ra con Vện già! Tôi rờ đầu nó, nó đứng lên ôm eo ếch tôi. Hồi tôi từ Khám Lớn về nhà cách đây ba năm, ngày nào tôi cũng cho Vện ăn ngon, vuốt ve nó, nói chuyện với nó. Nó mến tôi lắm. Tối, nó ngủ dưới chân tôi, tôi trải manh đệm cho nó nằm. Có một buổi tối nọ, mật thám Tây, phủ Hoài và cả phủ Mai dắt lính đến nhà bắt tôi thì Vện sủa dữ, bị thằng cò đá một đá, nó la hoẳng, chạy trốn dưới sàn, nhưng nó dám đưa tôi ra tới cổng. Bây giờ nó còn nhớ hơi tôi! Như vậy là Vện đã hay tôi về khi tôi còn lội dưới mương. Nếu nó sủa ầm lên thì cũng sanh rầy: hàng xóm, mấy ông già chưa ngủ, sẽ đoán rằng bà Bái có khách khuya. Con Vện dường như cũng biết giữ bí mật cho chủ nó. Khôn thật! Chị Chín tôi còn thức. Linh tính khiến chị ngó qua vách, hỏi khẽ: “Em đó hả?”. Tôi khẽ lên tiếng “Em đây!”.

Trong nhà chị tôi chỉ có một cây đèn dầu leo lét trên bàn thờ Phật, ngọn chỉ bằng hột bắp, chiếu sáng lờ mờ một khoảng bằng cái cơi trầu. Chị tôi mở cửa sau rước tôi vào nhà. Hai cháu gái mừng cậu trong bóng tối, khóc thút thít. Con Vện liếm chân tôi một hồi rồi ra nằm ngoài sân, như để canh chừng.

Chị Chín tôi cực khổ với tôi lắm. Hồi tôi còn đi học ở trường Tầm Vu, chị tôi phải dậy sớm nấu cơm, rang vài bát cho tôi ăn liền, còn vài ba bát nữa thì tôi đem theo trong một cái giạ nhỏ xíu xinh xinh với mấy con tép hay một khứa cá kho khô. Khi tôi bị tù rạc thì chị Chín tôi đi thăm. Tôi trốn ở Nam Trung Kỳ thì chị Chín lặn lội đem tiền ra cho tôi. Chưa kể hằng đêm chị tôi tụng kinh cầu Phật phù hộ em. Bây giờ chị kể hết việc nhà, từ khi tôi trốn khỏi căng Tà Lài tới nay; chị nói: “đám lính rình rập mãi năm, sáu tháng rồi thôi, em có thể ở nhà mấy bữa mà không hề gì”.

Trong lúc tôi bắc ghế trên phản với lên mái nhà cắt năm ruột lạt cột lá dừa (đề phòng có biến sẽ đu lên nóc) thì hai cháu Ba, Tư lên nhà thờ rước bà ngoại xuống nhà tụi nó, nói rằng có ông thầy chùa ở chợ Ông Văn sang thăm và lạc quyên để sửa tượng Phật. Má tôi vô nhà chị tôi rồi mới hay rằng ông thầy chùa đó là tôi. Mẹ con ôm hôn nhau, mừng mừng tủi tủi. Mẹ tôi hôn tôi khắp mặt, cổ, tay, hôn tới đâu nước mắt cụ thấm ướt tới đó. Trong đêm tối, tôi cảm thấy má tôi già thêm nhiều so với ba năm trước. Làm da má nhăn sâu hơn, cái răng cửa hồi đó còn, bây giờ rụng mất rồi; lưng má tôi còng hơn. Má tôi năm nay ngót 80 tuổi. Bà kể lại rằng hôm cò Tây tới bắt tôi, má tôi tưởng đâu Pháp bắt tôi đem đi bắn bởi vì chiến tranh đã nổ ra rồi. Má tôi còn kể lại rằng, sau khi tôi bị bắt, sáng sớm má tôi rải lúa cho bầy gà bầy vịt để dành cho tôi thì má tôi khóc hết nước mắt. Má tôi cũng kể lại rằng, khi tôi vượt ngục Tà Lài, đám quan chức trong làng báo tin tôi đã bị dân thiểu số bắt lại, chặt đầu đem nộp cho Tây lấy thưởng bằng gạo, bằng muối. Nghe tin sét đánh đó, mấy lần má tôi chết ngất. Mãi đến khi chị Chín tôi ra Nha Trang gặp tôi rồi về nói cho má tôi biết thì má tôi mới tin chắc là tôi còn sống. Má tôi cưng tôi nhất nhà, bởi vì tôi là con út, là đứa có trách nhiệm nuôi cha mẹ lúc già và giỗ cha mẹ khi mất; nhưng bao nhiêu hy vọng của cha mẹ gởi vào tôi đều chẳng được chút gì. Cha tôi chết khi tôi còn ở tù. Không biết rồi khi má tôi theo cha đi, tôi sẽ có mặt ở nhà không? Hay lại cũng nơi chân trời góc biển?

Cả má và chị Chín đều bảo tôi ở lại chơi một vài ngày, để có thời giờ cho các cháu đi Phú Ngãi Trị rước vợ tôi về An Lục Long. Tôi cũng muốn như vậy lắm. Song, làm sao tính cho hết sự bất ngờ? Rủi ro có bề gì thì đã thiệt mạng mình mà mình lại đắc tội với dân tộc, với Đảng. Nên tôi quyết định là quá canh ba tôi sẽ lên đường;
mục đích về thăm mẹ đã đạt rồi. Vài hôm nữa, tôi phải có mặt ở một địa điểm thuộc tỉnh Chợ Lớn (Phú Lạc), hay một địa điểm thuộc Gò Vấp (Hàng Điệp, Bào Lăng, Gia Định) để họp với Ban cán sự thành Sài Gòn mở rộng. Đứng vững trên căn cứ nơi ngoại thành Sài Gòn, tôi sẽ có dịp nhắn vợ tôi lên, không muộn.

Gà gáy mấy chập. Trăng sắp mọc.

Tôi ôm hôn mẹ, chị, hai cháu, rồi gạt nước mắt ra đi, không quên vuốt đầu vỗ lưng con Vện và để nó hít tay tôi, nó vừa hít vừa ngoáy đuôi lia lịa. Tôi lại vo quần, xuống mương, ra bằng ngõ đã vào. Đứng yên trong bụi một lúc, không thấy động tĩnh gì, tôi thong thả lên đường, chốc chốc ngoái lại mộ cha, nhà mẹ, rặng tre thân thiết nơi đã chứng kiến tôi được sinh ra, lớn lên và vào đời chiến sĩ. Tôi nào ngờ gặp mẹ lần này là lần cuối. Tháng Tám năm 1945, cách mạng thành công, tôi chưa kịp thu xếp một ngày về quê thăm mẹ, thì kháng chiến chống Pháp nổ ra; việc lớn này chưa làm lại xảy ra việc lớn hơn. Má tôi mất năm 1950, khi tôi đang từ mặt trận Đăngrêch (Campuchia) về ở Việt Bắc. Tôi ân hận mãi không được gặp lại mẹ tôi ban ngày ban mặt hay dưới ánh sáng đèn điện để ghi lại trong đáy mắt chân dung người mang nặng đẻ đau sinh ra đứa con bất hiếu này.

Chú thích của người biên tập

8 Chúng tôi chưa tìm ra được những tập sách bỏ túi này cũng như những lời phê phán của Trường Chinh. Rất mong được bạn đọc giúp đỡ.

9 Tam quá kỳ lư bất nhập: ba lần đi qua ngôi nhà nhỏ đó mà không ghé vào.

(Source: Forum)