ĐƯỜNG LÂM LÀ ĐƯỜNG LÂM NÀO ? – TÌM VỀ QUÊ HƯƠNG NGÔ CHÂN LƯU (kỳ 2)

5. Châu Đường Lâm (Phúc Lộc) qua tư liệu cổ sử

Tuy nhiên, đối với người làm công tác nghiên cứu lịch sử và nhất là nghiên cứu văn bản học chuyên sâu, những nghi ngờ đã le lói đâu đó trong các chuyên luận hay bài viết (có thể kể đến công trình của GS Đào Duy Anh[57], Văn Tân[58] hay Bùi Văn Nguyên[59], Nguyễn Huệ Chi[60] v.v…), đã để lại nhiều gợi mở cho người đi sau tiếp tục tìm hiểu và giải mã. Với việc công nhận thông tin Khuông Việt Ngô Chân Lưu là hậu duệ của Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền), thì đương nhiên quê hương Đại sư ắt là quê hương của tổ tiên ông, gần thì ông nội Ngô Quyền, xa hơn chút là cụ nội Ngô Mân là ở châu Đường Lâm. Dưới đây, chúng tôi tiến hành khảo sát sơ bộ các tài liệu cổ sử Việt Nam và Trung Quốc về địa danh này với tư cách một đơn vị hành chính là châu.

5.1. Châu Đường Lâm qua cổ sử Việt Nam

Sử Tàu không chép “trực tiếp” về quê hương của Ngô Quyền cũng như các cụ tổ nhà Ngô Chân Lưu. Khảo xét thư tịch cổ Việt Nam thì tài liệu đáng lưu ý nhất là An Nam chí lược 安南志略[61] của Lê Tắc 黎崱 soạn năm 1335 có ghi như sau: 五季間愛州人吳權領交阯 “Qua đời Ngũ-Đại (907-959), người đất Ái-Châu là Ngô Quyền, chiếm giữ quận Giao Chỉ”. Sách này một đoạn khác ghi: 呉權愛州人廷藝牙将也殺公羡而自立子昌岌弟昌濬繼之. Nghĩa là: “Ngô-Quyền: người Châu Ái, nha tướng của Đình Nghệ, giết Công Tiễn, tự lập làm vua, con là Xương Ngập với em Xương Tuấn kế noi ông”. Đến đây, thiết nghĩ cũng nên “điểm” qua vài nhân vật lịch sử có quê ở châu Đường Lâm.

Sách An Nam chí lược ghi: “Kịp thời Ngũ Đại, các người thổ hào ở các châu Giao, Ái là Khúc Hạo, Dương Đình Nghệ, Kiều Công Tiễn… thay nhau dùng võ lực cướp quyền.”[62] Sách này cũng ghi: 楊廷藝愛州人 “Dương Đình Nghệ: người châu Ái”[63]. Lại chép: “Niên hiệu Thiên Phúc nhà Tấn năm thứ 2 (Ngụy Hán, Đại Hữu thứ 10) (937), Ngô Quyền cử binh Ái Châu vây Công Tiễn”[64], lại chép: “Ngô Quyền, người Châu Ái, nha tướng của Đình Nghệ, giết Công Tiễn, tự lập làm vua.”[65] Cũng ghi 黎桓愛州人有志畧得志丁璉委以兵權因簒丁氏自稱交州三使“Lê Hoàn người Ái châu, có chí lược, được Đinh Liễn giao binh quyền, nhân soán ngôi họ Đinh, tự xưng Giao châu Tam sứ”

An Nam chí lược quyển 1 mục Cổ châu danh có ghi nhận châu Đường Lâm: 古州名峯州呉曰新昌長州武峩州唐林州. Nghĩa là: “Tên các châu cổ: Phong châu (đời Ngô là Tân Xương), Trường châu, Vũ Nga châu, Đường Lâm châu”[66]. Nhiều ý kiến cho rằng có lẽ ghi chép này đúng bởi soạn giả Lê Tắc sống vào thế kỉ XIII, lại là người cùng quê[67], khả năng chính xác là cao [68].

Sách Việt Điện u linh tập 粵甸幽靈集 do Lý Tế Xuyên 李濟川 soạn năm 1329: 按趙公交州記。王姓馮名興。世為唐林州夷長。號郎官。王豪富有勇力。能搏虎。。。王用唐林人杜英翰之計。以吳兵襲唐林州[69] “Xét sách Giao châu ký của Triệu công, Vương họ Phùng tên Hưng, đời đời làm di trưởng châu Đường Lâm, hiệu là Quan lang. Vương giàu có, lại có dũng lực, có thể đánh hổ… Vương dùng kế của người châu Đường Lâm là Đỗ Anh Hàn, đem quân ngô đi đánh châu Đường Lâm.”

Như vậy, các ghi chép về châu Đường Lâm qua hai thư tịch được coi là cổ nhất còn lại do người Việt biên soạn là An Nam chí lược và Việt điện u linh, chúng ta bước đầu có một sự mường tượng như sau về mảnh đất này. Châu Đường Lâm (xuất nhập hoặc cận kề với Châu Ái) vào thế kỷ VIII- IX là nguyên quán của hàng loạt các thủ lĩnh như Phùng Hưng, Khúc Hạo, Dương Đình Nghệ (con là Dương Tam Kha), Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền (con: Ngô Xương Văn, Ngô Xương Ngập; cháu: Ngô Chân Lưu, Ngô Xương Xí, Ngô Nhật Khánh). Ngoài ra, còn có Đinh Bộ Lĩnh đóng đô ở Hoa Lư (thuộc Thanh Hoa ngoại trấn sau này). Trần Công Lãm một sứ quân từng chiếm cứ Đường Lâm[70]. Thêm nữa, Lê Hoàn là người Trường Châu (cũng thuộc Thanh Hoá). Điểm diện để “cắm cờ” cho các quân doanh và địa bàn hoạt động thì có thể thấy những mối liên hệ về gia tộc, hôn nhân, quyền lực, tôn giáo của các thế lực này, từ đó có thể vạch ra một sơ hồ tổng quan hệ của các nhân vật lịch sử. Cho nên, vùng Ái châu, Trường châu, Hoan châu và châu Đường Lâm xưa có thể coi là trung tâm chính trị của nước ta vào giai đoạn đó. Vấn đề này đến nay dường như chưa được quan tâm đúng mức, cần có những khảo sát sâu hơn, rộng hơn và nhiều chiều hơn nữa[71]. Tạm không nêu ở đây.

5.2. Châu Đường Lâm qua cổ sử Trung Hoa

Khảo thư tịch cổ Trung Quốc đồng đại và hậu đại, có một số thông tin về châu Đường Lâm – Phúc Lộc như sau[72]:

Thông điển 通典 do Đỗ Hữu 杜佑 (735 – 812) đời Đường soạn xong năm 801, quyển 184 ghi: 福禄郡東至里南至里西至北至里東南到里西南到里西北到里東北到里去西京里去東京里户口福禄州土地與九真郡同大唐為福禄州或為福禄郡領縣二柔遠唐林文陽郡長州土地與九真郡同大唐為長州或為文陽郡領縣四銅蔡長山其常文陽今理安遠縣東至里南至里西至里北至里東南到里西南到里西北到里東北到里去西京里去東京里户六百三十口三千四十今理文陽縣日南郡東至福禄郡界一百里南至羅伏郡界一百五十里西至環王國界八百里北至九真郡界六百里東南到海百五十里西南到當郡界四百里西北到靈䟦江四百七十里東北到陵水郡五百里去西京陸路一萬二千四百五十里水路一萬七千里去東京陸路一萬五百九十五里水路一萬七千二百二十里户九千六百二十九口五萬三千八百一十八. Nghĩa là: “Quận Phúc Lộc, phía đông… phía nam… phía tây… phía bắc… phía đông nam… phía tây bắc… phía đông bắc… cách Tây Kinh[73]… cách Đông Kinh[74]… hộ… người. Châu Phúc Lộc, sở trị ở huyện An Viễn. Đất đai giống với quận Cửu Chân. Nhà Đại Đường đặt ra châu Phúc Lộc, hoặc là quận Phúc Lộc. Lĩnh hai huyện: Nhu Viễn. Đường Lâm. Quận Văn Dương, phía đông… phía nam… phía tây… phía bắc… phía đông nam… phía tây nam… phía tây bắc… phía đông bắc… Cách Đông Kinh… cách Tây Kinh… Sáu trăm mười ba hộ, ba nghìn bốn mươi người. Trường Châu, sở trị ở huyện Văn Dương. Đất đai giống với quận Cửu Chân. Nhà Đại Đường đặt ra Trường Châu, hoặc là quận Văn Dương. Lĩnh bốn huyện: Đồng Thái, Trường Sơn, Kì Thường, Văn Dương. Quận Nhật Nam, phía đông đến địa giới quận Phúc Lộc một trăm dặm. Phía nam đến địa giới quận La Phục một trăm năm mươi dặm. Phía tây đến địa giới nước Hoàn Vương tám trăm dặm. Phía bắc đến địa giới quận Cửu Chân sáu trăm dặm. Phía đông nam đến biển một trăm năm mươi dặm. Phía tây nam đến địa giới quận Đương bốn trăm dặm. Phía tây bắc đến sông Linh Bạt bốn trăm bảy mươi dặm. Phía đông bắc đến quận Lăng Thủy năm trăm dặm. Đi Tây Kinh theo đường bộ một vạn hai nghìn bốn trăm năm mươi dặm, đường thủy một vạn bảy nghìn dặm. Cách Đông Kinh đường bộ một vạn năm trăm chín mươi lăm dặm, đường thủy một vạn bảy nghìn hai trăm hai mươi dặm. Chín nghìn sáu trăm mười chín hộ, năm vạn ba nghìn tám trăm mười tám người”.

Cựu Đường thư 舊唐書 do người thời Hậu Tấn là Lưu Húc 劉 昫(887- 946)khởi soạn vào năm 945, quyển 41 ghi: 岭南道福禄州下土俗同九真郡之地后為生獠所据龍朔三年智州刺史謝法成招慰生獠昆明北楼等七千餘落總章二年置福禄州以處之天宝元年改為福禄郡至德二年改為唐林郡乾元元年复為福禄州領縣二無户口及两京道里四至州郡 柔遠州所治與州同置本名安遠至德二年改為柔遠也 唐林 “Đạo Lĩnh Nam, châu Phúc Lộc: Đất đai phong tục giống với đất quận Cửu Chân, sau bị người Sinh Liêu chiếm. Năm thứ ba niên hiệu Long Sóc (663), Trí Châu Thứ sử Tạ Pháp Thành chiêu dụ bảy nghìn lạc[75] dân thổ Côn Minh, Bắc Lâu[76]. Năm Tổng Chương thứ hai (669), đặt ra châu Phúc Lộc để cai trị họ. Năm đầu niên hiệu Thiên Bảo đầu tiên (742), đổi làm quận Phúc Lộc. Năm thứ hai niên hiệu Chí Đức (757), đổi làm quận Đường Lâm. Năm đầu tiên niên hiệu Càn Nguyên (758), đặt lại làm châu Phúc Lộc. Lĩnh hai huyện, không tính số hộ, người và số dặm đường đến hai kinh đô, bốn phía đến châu quận. Nhu Viễn: sở trị của châu, cùng lập ra với châu, vốn tên là An Viễn, năm thứ hai niên hiệu Chí Đức, đổi tên là Nhu Viễn vậy. Đường Lâm.”

Cựu Đường thư, Quyển tứ thập nhất khảo chứng: 福祿州領柔遠一縣。新書多唐林福祿二縣 “Châu Phúc Lộc lĩnh một huyện Nhu Viễn. nay mới chép thêm hai huyện Đường Lâm, Phúc Lộc.”

Thái Bình hoàn vũ kí 太平寰宇記 (quyển 171) soạn vào đời Tống Thái Tông 宋太宗 trong những năm Thái Bình Hưng Quốc 太平興國(976 – 983)ghi: 福禄州福禄州福禄郡今理安遠縣土俗同九眞郡之地後為生獠所據唐龍朔三年智州刺史謝法成招尉生獠昆明比樓等七千餘落總章三年置福禄州以處之天寳元年改為福禄郡至德二年改為唐林郡乾元元年復為福禄州元領縣三柔遠唐林福禄土産貢白蠟紫緋騏麟竭無名異柔逺縣一鄉州理本名安遠唐至德二年改為柔逺唐林縣一鄉福禄縣一鄉已上三縣與州同置 “Phúc Lộc châu (Phúc Lộc quận): nay sở lị ở huyện An Viễn, đất đai và phong tục gần với quận Cửu Chân, sau bị dân Sinh Liêu chiếm cứ. Đời Đường, năm Long Sóc thứ hai (662), Trí châu Thứ sử Tạ Pháp Thành chiêu dụ vỗ về được dân miền núi là Côn Minh, Tỉ Lâu[77] v.v. hơn bảy ngàn lạc. Năm Tổng Chương thứ 3 (670) đặt châu Phúc Lộc để cai quản dân này. Năm Thiên Bảo thứ nhất, cải làm quận Phúc Lộc. Năm Chí Đức thứ 2 (757), cải làm quận Đường Lâm. Năm Càn Nguyên thứ nhất (758), cải lại làm châu Phúc Lộc. Châu này vốn lĩnh ba huyện là Nhu Viễn, Đường Lâm, Phúc Lộc. Thổ sản: cống bạch lạp (sáp trắng), tử phi[78], sừng tê, và nhiều thứ lạ không biết tên. Huyện Nhu Viễn một hương: vốn tên là An Viễn, đời Đường Năm Chí Đức thứ 2 (757) cải làm Nhu Viễn. Đường Lâm huyện một hương. Phúc Lộc huyện một hương. Trở lên là ba huyện được đặt ra cùng với châu”.

Tân Đường thư 新唐書 do Âu Dương Tu 歐陽修 và Tống Kì 宋祁 biên soạn năm 1060, quyển 43 thượng ghi: 福禄州唐林郡下本福禄郡總章二年智州刺史謝法成招慰生獠昆明北楼等七千餘落以故唐林州地置大足元年更名安武州至德二載更郡曰唐林乾元元年复州故名土貢白蠟紫穀户三百一十七縣三柔遠本安遠至德二載更名唐林唐初以唐林安遠二縣置唐林州后州縣皆廢更置福禄下“Quận Đường Lâm của châu Phúc Lộc, vốn là quận Phúc Lộc, năm thứ hai niên hiệu Tổng Chương (669), Trí Châu Thứ sử là Tạ Pháp Thành chiêu dụ hơn bảy nghìn lạc người thổ Côn Minh, Bắc Lâu, cho nên đất Đường Lâm đặt ra. Năm đầu tiên niên hiệu Đại Túc đầu tiên (701) đổi tên là châu An Vũ, năm thứ hai niên hiệu Chí Đức (757) đổi thành quận đặt tên là Đường Lâm, năm đầu tiên niên hiệu Càn Nguyên (758), đặt lại tên châu như cũ. Đồ cống nạp của đất này: bạch lạp[79], tử cốc. Ba trăm mười bảy hộ. Ba huyện: Nhu Viễn, vốn là huyện An Viễn, năm Chí Đức thứ hai đổi tên; Đường Lâm, đầu thời Đường lấy hai huyện Đường Lâm, An Viễn đặt ra châu Đường Lâm, sau châu, huyện đều bỏ, đổi đặt lại; Phúc Lộc.”

Tân Đường thư, quyển 43 hạ: 岭南道 一路自驩州东二日行至唐林州安遠縣南行經古羅江二日行至環王國之檀洞江又四日至硃崖又經单补鎮二日至環王國城故漢日南郡地也 “Đạo Lĩnh Nam: Một đường từ phía đông Hoan Châu[80] đi hai ngày, đến huyện An Viễn của châu Đường Lâm, đi về phía nam qua sông Cổ La, đi hai ngày đến sông Đàn Động của nước Hoàn Vương[81]. Lại đi bốn ngày đến Chu Nhai[82]. Lại đi qua Đan Bổ Trấn, đi hai ngày đến thành nước Hoàn Vương, thời Hán xưa gọi là đất quận Nhật Nam vậy.”

Dư địa quảng kí 輿地廣記, do Âu Dương Văn 歐陽忞 soạn vào đời Tống Huy Tông 宋徽宗 trong những năm Chính Hoà 政和 (1111-1117), quyển 38 có đoạn : 福禄州自隋以前地理與福禄郡同後為生獠所據唐龍朔三年智州刺史謝法成招慰生獠昆明北樓及生獠等七千餘落總章二年置福禄州以處之天寶元年改為福禄郡至德二載改為唐林[83]郡乾元元年復為福禄郡
Nghĩa là: “…châu Phúc Lộc từ đời Tùy về trước, địa lý cùng như quận Phúc Lộc, sau bị dân thổ chiếm. Đời Đường, năm Long Sóc thứ 3, Trí châu Thứ sử Tạ Pháp Thành úy lạo hơn bảy ngàn lạc dân thổ Côn Minh, Bắc Lâu. Năm Tổng Chương thứ 2 đặt châu Phúc Lộc để quản dân ấy. Năm Thiên Bảo thứ nhất, đổi làm quận Phúc Lộc. Năm Chí Đức thứ 2 đổi làm Đường Lâm quận. Năm Kiền Nguyên thứ nhất lại đổi thành Phúc Lộc quận.”

Đại sự ký 大事記 do Lã Tổ Khiêm 吕祖謙 (1137-1181) đời Tống soạn, quyển 12: 交趾今安南國交峯陸州之地九眞郡今化外愛驩長演山福禄州之地日南郡今化外林景州之地朱崖郡今朱崖萬安軍瓊州之地… “Giao Chỉ, nay là nước An Nam: Giao châu, Phong châu là đất Lục châu xưa. Quận Cửu Chân nay vốn là đất của châu Ái, châu Hoan, châu Trường, châu Diễn, châu Sơn, châu Phúc Lộc xưa. Quận Nhật Nam nay vốn là đất của châu Lâm, Cảnh. Quận Chu Nhai nay vốn là đất của Chu Nhai, Vạn An, Quân, Quỳnh châu xưa”.

Quý Châu thông chí 貴州通志, do Trần Quân (? – ?) người đời Minh biên tập, quyển 3 ghi: 總章二年智州刺史謝法成招慰生獠以故唐林州地置福禄州…古州福禄州俱隸嶺南採訪使唐末皆没於蠻. Nghĩa là: “năm Tổng Chương thứ 2, Trí châu thử sử Tạ Pháp Thành úy lạo dân thổ, cho nên châu Đường Lâm được đặt ra… châu Cổ và châu Phúc Lộc đều thuộc Lĩnh Nam, tìm trong sử thấy cuối đời Đường đều mất về tay người man[84].

Độc sử phương dư kỉ yếu 讀史方輿紀要 do người đời Thanh là Cố Tổ Vũ 顧祖禹 soạn trong 30 năm, hoàn tất năm 1692, quyển 112 ghi: 福禄城在府西南唐武德中所置羁縻唐林州也貞觀初廢總章二年智州刺史謝法成招慰生獠昆明北楼等七千餘落以故唐林州地置福禄州大足元年更名安武州神龍初复故天宝初曰福禄郡至德二載改曰唐林郡乾元初仍為福禄州后廢又桑遠廢縣唐福禄州治也本曰安遠至德二載改曰桑遠兼領唐林福禄二縣廢長州與福禄州相近唐置領文阳銅蔡長山其常四縣亦曰文陽郡,后為蠻廢。 Nghĩa là: “Thành Phúc Lộc tại phía tây nam phủ. Giữa năm Vũ Đức thời Đường đặt ra châu Đường Lâm ki mi vậy. Đầu năm Trinh Quán bỏ. Năm thứ hai niên hiệu Tổng Chương, Trí Châu Thứ sử Tạ Pháp Thành chiêu dụ hơn bảy nghìn lạc dân thổ Côn Minh, Bắc Lâu, cho nên đất châu Đường Lâm đặt ra châu Phúc Lộc. Năm đầu tiên niên hiệu Đại Túc, đổi tên là châu An Vũ. Đầu năm Thần Long, đặt lại như cũ. Đầu năm Thiên Bảo, gọi là quận Phúc Lộc. Năm thứ hai niên hiệu Chí Đức, đổi tên là quận Đường Lâm. Đầu năm Càn Nguyên, vẫn đặt ra châu Phúc Lộc. Sau đó bỏ. Lại bỏ huyện Tang Viễn, là sở trị của châu Phúc Lộc thời Đường vậy, vốn tên là An Viễn, năm thứ hai niên hiệu Chí Đức, đổi tên là Tang Viễn; kiêm lĩnh hai huyện Đường Lâm, Phúc Lộc. Bỏ Trường Châu, gần với châu Phúc Lộc, lĩnh bốn huyện Văn Dương, Đồng Thái, Trường Sơn, Kì Thường, cũng gọi là quận Văn Dương, sau bị người Man bỏ”.

Còn khá nhiều sử liệu đời sau khác cũng biên chép về châu Đường Lâm – Phúc Lộc nhưng phần lớn dẫn dụng các tài liệu cổ sử như đã nêu trên, vì vậy chúng tôi không trình bày tiếp ở đây.

Tổng hợp sử liệu đã nêu, có thể tạm thời nhận xét rằng: Đường Lâm/ Phúc Lộc là tên một đơn vị hành chính là châu (trong đó gồm ba huyện Nhu Viễn, Đường Lâm và Phúc Lộc, lại có thêm thành Phúc Lộc), được thành lập trong khoảng những năm Vũ Đức (từ 619 – 627 nhà Đường), đến sau đời Đường địa danh này bị bỏ. Nguyên do là Đường Lâm nằm gần Trường Châu[85], hai vùng này sau bị người miền núi chiếm cứ không thuộc sự quản lý của nhà Đường. Sau này không thấy khôi phục lại nữa. Theo Độc sử phương dư kỉ yếu thì Đường Lâm thuộc tây nam châu Ái (vào đời Đường không thuộc châu Ái nhưng phong tục thì tương đồng). Dân cư châu Đường Lâm/Phúc Lộc tuyệt đại đa số là người bản địa gồm các dân Côn Minh, Bắc Lâu/Tỉ Lâu[86], do các tù trưởng nắm giữ[87], khu vực này cũng có dân Bắc[88], có hộ khẩu[89], nhưng đóng thuế rất ít chủ yếu là lâm thổ sản.

Có vẻ như Đại Việt sử kí toàn thư cũng căn cứ vào cổ sử Trung Quốc để liên kết hai địa danh Phúc Lộc và Đường Lâm khi chú giải cho sự kiện Phùng Hưng nổi dậy: 辛 未 唐 貞 元 七 年春 安 南 都 護 府 髙 正 平 為 政 重 歛夏 四 月 交 州 唐 林 人 唐 林 在 福 祿 縣 馮 興 起 兵 圍 府政 平 以 憂 子先 是 馮 興 豪 富 有 勇 力 能 排 牛 搏 虎於 唐 代 宗 大 曆 中 因 交 州 亂 與 其 弟 駭 相 率 復 諸 隣 邑 興 號 都 君 駭 號 都 保 與 正 平 相 攻 久 不 能 克至 是 用 . Nghĩa là: “Tân Mùi [791], (Đường Trinh Nguyên năm thứ 7). Mùa xuân, An Nam đô hộ phủ là Cao Chính Bình làm việc quan bắt dân đóng góp nặng. Mùa hạ, tháng 4, người ở Đường Lâm thuộc Giao Châu (Đường Lâm thuộc huyện Phúc Lộc) là Phùng Hưng dấy binh vây phủ. Chính Bình lo sợ mà chết. Trước đây Phùng Hưng vốn là nhà hào phú, có sức khỏe, có thể vật trâu, đánh hổ. Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-780] đời Đường Đại Tông, nhân Giao Châu có loạn, cùng với em là Hãi hàng phục được các ấp bên cạnh, Hưng xưng là Đô Quân, Hãi xưng là Đô Bảo, đánh nhau với Chính Bình, lâu ngày không thắng được.”[90] Ghi chép trên của Đại Việt sử kí toàn thư nói một cách chính xác quê Phùng Hưng là ở huyện Đường Lâm châu Phúc Lộc[91]. Tuy vậy, Cựu Đường thư, Tân Đường thư ghi: 柔逺縣一鄉…唐林縣一鄉,福禄縣一鄉,已上三縣 Nhu Viễn huyện nhất hương… Đường Lâm huyện nhất hương, Phúc Lộc huyện nhất hương, dĩ thượng tam huyện. Rắc rối là ở các chữ “ huyện nhất hương”. “Nhất hương” ở đây là một cụm danh từ có kết cấu “số từ + lượng từ”, lượng từ “hương” không phải là một đơn vị hành chính, mà trỏ một vùng đất chung chung. Đơn vị hành chính trong cụm “Đường Lâm huyện nhất hương” đã nằm trong chữ huyện rồi. Các sử gia đời sau vì một lẽ nào đó chỉ ghi là “Đường Lâm nhất hương”, khiến cho nhiều thế hệ dịch giả dịch thành “Đường Lâm, một làng”. Có lẽ câu chuyện đi tìm làng Đường Lâm từ đây mà ra.

Dù thế nào thì Đường Lâm và Phúc Lộc gần như luôn đi kèm với nhau, nếu biết Đường Lâm chính xác ở đâu thì xác định được vị trí tương đối của Phúc Lộc và ngược lại. Xét sử kí Trung Hoa ghi chép các địa danh Phúc Lộc, có thể định vị được Phúc Lộc có thể nằm ở vị trí nào ngày nay[92].

Tổng hợp những tư liệu về châu Phúc Lộc cho thấy. Phúc Lộc vừa là tên châu vừa là tên một huyện. Địa danh Phúc Lộc luôn có sự xuất nhập với Đường Lâm trong khi Nhu Viễn (sau đổi là An Viễn, hay An Vũ) ổn định lệ thuộc một trong châu này. Phúc Lộc cũng như Đường Lâm gần với quận Cửu Chân, thổ tục giống như vậy. Với những sử liệu và lập luận được sử dụng, bước đầu có thể tin rằng Phùng Hưng, Ngô Quyền, cũng như Ngô Chân Lưu là người châu Đường Lâm/ Phúc Lộc. Đường Lâm này xuất nhập với châu Ái cho nên Lê Tắc mới cho rằng Ngô Quyền là người châu Ái. Vị trí chính xác của Đường Lâm này nằm ở đâu chúng tôi xin được đề cập đến trong bài viết khác, nhưng khả năng cao là châu Đường Lâm này khó có thể nằm ở Sơn Tây ngày nay, như chúng tôi đã chứng minh ở trên.

KẾT LUẬN

Qua những cứ liệu đã trình bày, chúng tôi tạm có một vài kết luận sơ bộ như sau:

1. Nếu tin Khuông Việt là người hương Cát Lợi, quận Thường Lạc thì cho đến hiện nay mới chỉ tìm thấy tên địa danh này sớm nhất là ở trong Thái bình hoàn vũ kí (thời Tống). Địa danh này sau đổi là huyện An Thuận, nằm ở đông nam châu Ái. Theo Việt sử lược và Minh sử kí sự bản mạt ít nhất địa danh này phải nằm ở phía nam Thanh Hoá gần khu vực Nghệ An ngày nay. Đại Việt sử kí toàn thư có xác nhận địa danh Cát Lợi ở Bắc Giang, song đây có thể là do trùng danh. Và Cát Lợi (Bắc Giang), nay thuộc Sóc Sơn, với 5 cứ liệu văn bia từ thế kỷ XVII đến XX nếu có thì chỉ là nơi Khuông Việt tu tập trụ trì và quy tịch mà thôi.

2. Nếu tin Khuông Việt Ngô Chân Lưu là dòng dõi Ngô Thuận Đế và Ngô Thuận Đế chính là Ngô Quyền thì Ngô Chân Lưu là người châu Đường Lâm. Vị trí chính xác của châu Đường Lâm còn phải khảo chứng thực địa, bổ sung các cứ liệu về họ tộc, cư dân, phong tục, sản vật, ngôn ngữ bản địa, cũng như sự thờ cúng và tư liệu điền dã tại địa bàn Thanh Hoá ngày nay và các khu vực lân cận. Châu Đường Lâm vốn từng có tên châu Phúc Lộc (gồm ba huyện Nhu Viễn, Đường Lâm và Phúc Lộc), châu này nằm phía tây nam Ái Châu, gần gũi Trường Châu, về sau đã có lúc quy về Ái Châu. Cả hai địa danh Đường Lâm và Phúc Lộc sau đời Đường đều bỏ. Dù vậy, có thể khẳng định rằng quê Ngô Quyền nằm loanh quanh giữa vùng Thanh Hoá – Nghệ An[93] ngày nay mà khó có thể ở vị trí Sơn Tây (khi đó là huyện Gia Ninh của Phong Châu) được.

3. Trong suốt lịch sử từ đời Hán cho đến năm 1964, khu vực Sơn Tây không hề có châu hay huyện hay làng nào tên là Đường Lâm. Tên xã Đường Lâm tại Sơn Tây ngày nay mới xuất hiện từ năm 1964 (ngày 21 tháng 11).

Bài viết là một hành trình từ cổ sử Tàu qua cổ sử ta kết hợp với các tài liệu liên quan để có cái nhìn đồng đại và lịch đại nhằm soi tỏ vấn đề tưởng như đã không còn gì cần bàn cãi. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn nhận định rằng, dù quê Đại sư Khuông Việt ở đâu thì đó cũng không phải là ở Sơn Tây (ngày nay). Bài viết được hoàn thành một phần dựa trên những gợi mở chúng tôi có được từ các học giả trong và ngoài nước chính thức phát biểu qua những tham luận khoa học hay nhiều khi chỉ là câu chuyện lúc trà dư tửu hậu. Chúng tôi hi vọng trong thời gian sắp tới sẽ có dịp trở lại với chủ đề này.

Trần Ngọc Vương [1], Nguyễn Tô Lan, Trần Trọng Dương[2]

Bản thảo tại Nam Ninh, ngày 21/2/2011, chính bản hoàn thiện tại Hà Nội, 3/2011.

Liên lạc: Trần Trọng Dương, Viện NC Hán Nôm, 183 Đặng Tiến Đông, Đống Đa, HN

Email: trantrongduonghn@gmail.com

CHÚ THÍCH

[57] Đào Duy Anh, Đất nước Việt-nam qua các đời, sđd.

[58] Văn Tân, Vài sai lầm về tài liệu của bộ “Đại Việt sử ký toàn thư”, bđd.

[59] Bùi Văn Nguyên, chưa rõ căn cứ vào tài liệu nào, để khẳng định rằng: “Tăng Thống Ngô Chân Lưu, họ Ngô, người Chân Định, Nam Chân”. Chuyển dẫn theo Hoàng Văn Lâu, Đi tìm địa chỉ Ngô Chân Lưu, bđd, tr. 53 – 54.

[60] Nguyễn Huệ Chi, Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb. Thế giới, H., 2004.

[61] Văn uyên các Tứ khố toàn thư – An Nam chí lược, Đài Bắc Đài Loan Thương vụ Ấn thư quán, 1983.

[62] Lê Tắc, sđd, tr. 53.

[63] Lê Tắc, sđd, tr. 225.

[64] Lê Tắc, sđd, tr. 225.

[65] Lê Tắc, sđd, tr. 226.

[66] Lê Tắc, sđd, tr. 65

[67] “Tắc người An Nam, dòng dõi của Nguyễn Phu, Thứ sử Giao châu đời Đông Tấn. Đã nhiều đời ở Ái Châu, tằng tổ tên Khôn,… ông nội trên Trưng, cha tên Viễn Vọng…” Lê Tắc, An Nam chí lược, Tự tự, Nxb. Thuận Hoá, Huế., 2002. tr. 348.

[68] Về luận điểm này, chúng tôi xin bàn thêm ở phần sau.

[69] 粵甸幽靈集。布蓋孚祐彰信崇義大王.
A.47. (Viện Nghiên cứu Hán Nôm), tr. 4b-5a. Bản dịch đã công bố ghi hơi khác: “Theo sách Giao Châu ký của Triệu Vương, thì Vương họ Phùng tên là Hưng. Đời đời cha truyền con nối làm Tù trưởng Biên khố ở châu Đường Lâm gọi là Quan lang…Theo kế của Đỗ Anh Luân (còn viết là Hàn), người đất Đường Lâm, họ Tuần đem quân đi tuần hành ở các châu Đường Lâm, Trường Phong, các nơi ai nấy đều theo.” Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh tập粵甸幽靈, Đinh Gia Khánh – Trịnh Đình Rư dịch chú, Trần Nghĩa giới thiệu, Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, T1: dịch từ bản A. 751, Nxb Thế giới, H., 1997, tr. 60.

[70] Văn Uyên các Tứ khố toàn thư - Việt sử lược 越史略, quyển thượng, sđd, ghi: 十二使君矯三制名公桿據峯州阮太平名寛一名記據阮家陳公覽名日慶據唐林 “Mười hai sứ quân: Kiểu Tam Chế, tên là Công Can, chiếm lấy Phong Châu. Nguyễn Thái Bình, tên là Khoan, một tên nữa là Kí, chiếm lấy Nguyễn Gia. Trần Công Lãm, tên là Nhật Khánh, chiếm lấy Đường Lâm”.

[71] Điều này ít nhiều có thể “điểm danh chỉ mặt” qua các tư liệu văn hiến cổ nhất của Việt Nam còn lại đến nay đều thuộc về các hiện vật của Thanh Hoá, như văn bia Đại Tùy Cửu Chân đạo tràng, bia Thanh Mai, 40 kinh tràng trong số 200 kinh tràng do Đinh Liễn lập và Khuông Việt Ngô Chân Lưu làm chủ tế. Về bối cảnh văn hoá của một giai đoạn này xin xem thêm Trần Trọng Dương, Khảo về ĐẠI CỒ VIỆT- nước Việt- nước Phật giáo, Tạp chí Hán Nôm, số 02 năm 2009.

[72] Khi viết phần này chúng tôi tham khảo khá nhiều ở cuộc trao đổi của hai ông Lê Hải Nam và Tích Dã trên mạng Việt học về vấn đề quê hương Ngô Quyền, những chỉ dẫn của các ông đã giúp chúng tôi rất trong quá trình tư duy là khảo xét tài liệu. Nhân đây xin chân trọng cám ơn. Toàn bộ các sách trình bày ở dưới chúng tôi sử dụng bản in Văn Uyên các Tứ khố toàn thư, sđd. Bản gốc các tài liệu đã sử dụng in trong phụ lục có được là do sự giúp đỡ nhiệt tình của ông Nguyễn Phúc Anh (Giảng viên Hán Nôm, ĐH KHXH & NV), nhân đây xin chân thành cảm ơn.

[73] Trường An.

[74] Lạc Dương.

[75] Tân Đường thư và Cựu đường thư, Thái Bình hoàn vũ ký đều ghi là Lạc 落, Lê Hải Nam dịch là “bộ lạc”. Theo ngữ âm Nam Choang (tiếng Choang chia làm hai loại là Bắc Choang và Nam Choang, Nam Choang gần với tiếng các dân tộc phía Bắc Việt Nam như Nùng, Tày, Mường hơn là Bắc Choang) thì chữ “Lạc” này tương thông với chữ Lạc viết là 雒 hoặc 洛, đều là cách dùng âm chữ Hán để ghi cổ âm Nam Choang, nếu đọc theo phiên âm quốc tế hiện giờ đọc là [luk] chỉ một tập hợp người sinh sống trong một thung lũng nơi có dòng nước chảy qua, quy mô tương đương với một thôn hoặc chưa đến một thôn bây giờ, khoảng năm bảy hộ mà thôi. Nếu hiểu như vậy thì có nghĩa 7000 lạc ở đây là 7000 nhóm dân cư thuộc về các bộ lạc như Côn Minh, Bắc/Tỉ Lâu. Riêng về chữ Sinh Lão 生獠, theo chỉ dẫn của một số bạn đồng nghiệp Trung Quốc, có một cách hiểu khác nên được tham khảo là hai chữ nói trên không phải là tên danh xưng của bộ lạc, theo ngữ âm Nam Choang và tập quán dân tộc này cho đến ngày nay thì chữ “lão 獠” trong “sinh lão” 生獠 là cách ghi âm bằng Hán ngữ âm [rau] có nghĩa là người, Sinh Lão không phải tên bộ lạc mà là những người thổ chưa gia nhập hộ tịch. Như vậy câu trên có lẽ phải được dịch là “Trí Châu Thứ sử Tạ Pháp Thành chiêu dụ bảy nghìn lạc [75] dân thổ (tức dân miền núi) Côn Minh, Bắc Lâu”.

Phần luận giải liên quan đến ngữ âm Nam Choang chúng tôi căn cứ trên những thành tựu nghiên cứu của học giả Trung Quốc tại Khu tự trị dân tộc Choang, đặc biệt là qua nhiều trao đổi với Th.S Hứa Hiểu Minh, chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu dân tộc Choang, Viện Văn hoá Nghệ thuật tỉnh Quảng Tây và Giáo sư Phan Kỳ Húc, nhà Choang học, Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây. Tiếc là đến nay, chưa có bộ từ điển Choang – Hán nào được thực hiện dựa trên tiếng Nam Choang nên chúng tôi không có căn cứ văn hiến để khảo xét mà chỉ kết hợp tri thức từ các học giả và kết quả nghiên cứu điền dã tại tỉnh Quảng Tây để đưa ra giả thuyết cho rộng đường tham khảo. Rất mong được các học giả ngôn ngữ học chỉ chính.

[76] Câu này ông Tích Dã và nhiều học giả trước đó thống nhất dịch là : “….chiêu dụ hơn bảy nghìn bộ lạc Sinh Liêu, Côn Minh, Bắc/Tỉ Lâu”. Xin xem thêm các cứ liệu trình bày ở dưới.

[77] Tân Đường thư và Cựu đường thư đều ghi là Bắc Lâu. Hai chữ này tự dạng dạng dễ lẫn với nhau.

[78] Tân Đường thư chép là “tử cốc”.

[79] Bạch lạp:

[80] Phía nam Nghĩa An (tức Nghệ An ngày nay).

[81] Hậu thân của nước Lâm Ấp ngày trước.

[82] Thuộc khu vực đảo Hải Nam.

[83] Nguyên bản viết lầm thành Đường Đỗ quận 唐杜郡.

[84] Người man cũng như người thổ đều chỉ dân miền núi, chưa nhập hộ tịch.

[85] Trường Châu nằm gần Ái Châu, có thổ tục giống Ái Châu nhưng ở gần phủ thành An Nam Đô hộ phủ hơn, dân cư chủ yếu là người man. Vào thời Đường thì đất đai Trường Châu và Đường Lâm nhập vào Ái Châu. Chính vì vậy nên Đại Việt sử kí toàn thư chép Lê Hoàn là người Ái Châu, còn Đại Việt sử lược lại chép Lê Hoàn là người Trường Châu. Chúng tôi đồng ý với lập luận của ông Lê Hải Nam (trong phần trao đổi về chủ để Quê hương Ngô Quyền thực sự ở đâu? Với ông Tích Dã trên mạng Việt học như đã nêu trên) thì qua Độc sử phương dư kỉ yếu, tài liệu đã dẫn có thể cho ta biết vị trí Phúc Lộc sau khi bị phế là huyện Nga Lạc (thời Minh, Thanh), là nơi “quan tuần kiểm Nga Lạc là Lê Lợi làm phản”. Vậy huyện Nga Lạc này nằm ngay trên vị trí của cả Phúc Lộc và Trường Châu, quê của Lê Lợi tức bao gồm huyện Ngọc Lạc và Thọ Xuân hiện nay, vào thời Đường thì Nga Lạc phần bắc thuộc Trường Châu, phần nam thuộc Phúc Lộc (chú theo Lê Hải Nam).

Đặng Xuân Bảng thì xác định Trường Châu chính là phủ Yên Khánh và Nho Quan tỉnh Ninh Bình vào cuối thế kỷ XIX, Đặng Xuân Bảng, sđd, tr. 46. Tuy nhiên, thông tin này cần phải khảo lại một cách cụ thể.

[86] Đây có lẽ đều là tên do người Hán đặt để gọi các dân tộc bản địa này. Cụ thể là chỉ những dân tộc nào trong tương ứng với cách gọi hiện nay, thì cần phải tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới.

[87] Bản thân Đỗ Anh Hàn (có bản chép là Luân), thủ hạ của Phùng Hưng cũng là một dạng tù trưởng như vậy. Xin xem Tân Đường thư, quyển 170.

[88] Chỉ chung cho những tộc người từ phương Bắc (tức Trung Quốc) di cư xuống đây, không nhất thiết chỉ có dân tộc Hán.

[89] Có bản Tân Đường thư ghi các lạc ở đây là hộ, vùng này chỉ có 317 hộ, khoảng 1500 khẩu. Điều này cổ vũ thêm cho lập luận về chữ “lạc” của chúng tôi ở trên.

[90] Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr. 6a.

[91] So sánh với sử liệu Trung Hoa như Cựu Đường thư, Tân Đường thư mà chúng tôi dẫn ở trên, thì thông tin này khá trùng khít. Các sách ấy đều ghi châu Phúc Lộc (có khi được đổi thành châu Đường Lâm) bao gồm ba huyện Nhu Viễn, Đường Lâm và Phúc Lộc.

[92] Đào Duy Anh cho rằng Đường Lâm thuộc Nghệ An ngày nay. Lập luận chủ yếu của ông như sau: “Theo Giã Đam ký (sic) thì từ Hoan Châu đi về phía Đông, hai ngày đến huyện Nhu Viễn châu Đường Lâm. Địa thế huyện Nhu Viễn và châu Đường Lâm như thế là ở miền Hoành Sơn. Châu Phúc Lộc phải ở về miền thượng du, phía Tây Hà Tĩnh. Thái Bình hoàn vũ ký nói từ Hoan Châu đi về phía đông theo dọc biển đến châu Phúc Lộc là 102 dặm. Có thể là châu Phúc Lộc gồm cả miền Nam Hà Tĩnh và miền Quy Hợp Ngọc Ma ở phía tây Hoành Sơn.” Xem Đào Duy Anh, sđd, tr. 102. “Giã Đam ký” mà Đào Duy Anh trích có lẽ là sách Trinh Nguyên thập đạo lục 貞元十道錄 của Giả Đam 賈耽 và La Chấn Ngọc 羅振玉, sách in năm Dân Quốc thứ 2 (1913).

Hơn nữa, ngay trong cũng trong Đại Việt sử kí toàn thư có kể chuyện Ngô Nhật Khánh sau chạy sang Chiêm Thành, tới cửa Nam Giới (Hà Tĩnh ) đã đuổi vợ về (vợ Khánh là con gái Đinh Tiên Hoàng), điều này chứng minh Đường Lâm phải không xa Hà Tĩnh (và Chiêm Thành). Nếu Đường Lâm ở Sơn Tây thì tính theo địa lý, không lẽ lại chạy xa và tới một nơi hoàn toàn xa lại như thế. Cũng theo Tân Đường thư thì châu Đường Lâm phía tây nam giáp hai nước là Đường Minh và Chiêm Thành. Như vậy, ở đây xuất hiện hai châu Đường Lâm. Một châu ở tây nam Ái Châu, thổ tục giống Ái Châu, có thời gian xuất nhập với Ái Châu và một châu ở phía nam Hoan Châu, giáp với Đường Minh và Chiêm Thành. Trong một khoảng thời gian ngắn như vậy, khó có thể xuất hiện cùng lúc hai địa danh giống nhau với quy mô tương đương nhau như vậy. Rõ ràng, một trong hai sử liệu là có vấn đề. Vấn đề sẽ được giải quyết khi xác định vị trí của Đường Lâm và Phúc Lộc (chua theo Lê Hải Nam).

Ở đây, vì không gian của một bài viết là khá hạn hẹp, chúng tôi xin không trích lại những tài liệu chỉ liệt kê châu Phúc Lộc như một trong số các châu của vùng Lĩnh Nam xưa như sách: Nguyên Phong cửu vực chí, quyển 10, Quảng Nam lộ; Văn hiến thông khảo, quyển 323 chỉ chép Phúc Lộc châu tam huyện (châu Phúc Lộc có 3 huyện); Khâm định tục Văn hiến thông khảo, quyển 333; Thái Bình ngự lãm; Mục lục nhị, Thái Bình ngự lãm, quyển 172, An Nam đô hộ phủ v.v… Tạm nêu ra ở đây để các bậc thức giả tìm đọc được dễ dàng.

[93] Ngoài ra, cũng phải tham khảo ý kiến của Đào Duy Anh, từ đó mở ra một hướng khác là đi tìm dấu vết Đường Lâm ở nơi có dòng dõi nhà Ngô ở Trảo Nha (nay là thị trấn Nghèn, Can Lộc, Hà Tĩnh), nằm ở phía nam Hoan Châu, giáp với Đường Minh và Chiêm Thành (nên mới có ý kiến cho Đường Lâm ở vị trí Hà Tĩnh ngày nay). Xin tham khảo thêm bài viết nói về Ngô Quyền sinh ra và quê quán ở Can Lộc, Hà Tĩnh đăng trên báo Văn nghệ, Số 33 ra ngày 16-8 năm 1997. Tư liệu cổ: Ngô tướng công đường kí 吳 相 公 堂 記 do Nguyễn Thuần Phu và Vũ Quang Đại soạn, niên đại Khánh Đức 3 (1651) ở nhà thờ họ Ngô, Trảo Nha, Can Lộc, Hà Tĩnh.