Trang nhà > Lịch sử > Danh nhân > Theo con đường Nguyễn Tất Thành lựa chọn
Theo con đường Nguyễn Tất Thành lựa chọn
Thứ Sáu 3, Tháng Sáu 2011, bởi
Một trăm năm đã qua kể từ ngày 5 tháng 6 năm 1911 Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng đáp tàu vượt biển lên đường sang Pháp. Chuyến đi ấy đã làm thay đổi hoàn toàn vận mệnh tổ quốc, mở ra một trang lịch sử mới, đưa Việt Nam từ một nước nô lệ, nghèo khổ, lạc hậu tiến lên trở thành quốc gia độc lập tự chủ, có thu nhập trung bình và đang nhanh chóng công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Đây thật là một chuyến đi có ý nghĩa sâu xa đáng để chúng ta tìm hiểu.
Lựa chọn dũng cảm và trí tuệ
Chàng trai Nguyễn Tất Thành mới 21 tuổi đã một mình dấn thân vào cuộc trường chinh vạn dặm khi cả dân tộc ta còn đang chìm đắm trong vũng bùn nô lệ vô cùng nghèo khổ, ngu muội, lạc hậu. Đây thật sự là một hành động dũng cảm. Nguyễn Tất Thành dám làm thế bởi lẽ anh ra đi với mục đích tìm đường cứu dân cứu nước. Hoài bão cao cả ấy đã chắp cánh nâng bổng anh vượt qua muôn vàn gian khó để ba chục năm sau hoàn thành cuộc trường chinh lịch sử, tìm ra con đường giải thoát dân tộc mình khỏi kiếp nô lệ.
Nguyễn Tất Thành biết rằng trước anh dăm năm đã có hai nhà yêu nước rời tổ quốc ra đi cùng với hoài bão như vậy. Đó là giải nguyên Phan Bội Châu cùng quê Nghệ An và phó bảng Phan Châu Trinh người Quảng Nam, hai bậc thức giả nổi tiếng khắp Bắc Trung Nam, hơn hẳn anh về học thức, tuổi đời và vốn sống.
Trong đêm dài đen tối thời xa xưa ấy, một số người con ưu tú của dân tộc ta đã nhìn thấy những chân trời hửng sáng ở hai phía Đông và Tây. Họ quyết định đi tìm chân lý. Nhưng nên đi đâu, Đông hay Tây?
Thông thường trước hết người đi đường tìm đến cái đích gần nhất. Châu Á thời ấy có Nhật Bản mới nổi lên như một vì sao sáng. Đảo quốc nhỏ bé này chỉ sau vài chục năm cải cách mở cửa với phương Tây đã thực hiện “Phú quốc binh cường”, đủ sức đánh bại hai nước lớn hơn hàng chục lần là Trung Quốc năm 1894 và Nga năm 1905.
Từ đó nhiều nhà yêu nước và trí thức châu Á tới Nhật học hỏi. Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch, Lỗ Tấn từ Trung Quốc, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh từ Việt Nam... đều đến đây; họ hy vọng sự gần gũi về địa lý và văn hoá, mối quan hệ “đồng văn đồng chủng” với Nhật sẽ giúp họ học được bí quyết “Nước giàu quân mạnh” để đem về giúp tổ quốc mình.
Khi ra đi tìm đường cứu nước, Phan Bội Châu đã 38 tuổi, Phan Châu Trinh 34, độ tuổi thời bấy giờ coi là không còn trẻ nữa. Năm 1905, Phan Bội Châu đến Tokyo. Khéo léo tranh thủ sự giúp đỡ của chính phủ Nhật, cụ đã đưa được hàng trăm thanh niên Việt Nam sang đây học quân sự, chính trị nhằm chuẩn bị lực lượng đánh đuổi thực dân Pháp. Đó là phong trào Đông Du nổi tiếng hồi ấy.
Năm sau Phan Châu Trinh sang Nhật. Hai nhà yêu nước vĩ đại họ Phan hết mực chân thành quý trọng nhau nhưng Phan Châu Trinh không tán thành chủ trương của Phan Bội Châu dựa vào Nhật để đuổi Pháp và tái lập chế độ phong kiến ở Việt Nam.
Phan Châu Trinh về Quảng Nam phát động phong trào Duy Tân rồi ra Hà Nội tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục của các sĩ phu Bắc Hà. Ba phong trào trên đã đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ta lên đỉnh cao chưa từng thấy, khiến thực dân Pháp run sợ. Chúng đã thẳng tay đàn áp.
Thực tế cho thấy không thể dựa Nhật để đuổi Pháp, vì thực dân và đế quốc cùng một giuộc. Thực dân Pháp nhanh chóng dập tắt phong trào Đông Du bằng cách trao đổi lợi ích với đế quốc Nhật, thuyết phục Nhật đuổi hết người Việt Nam học ở nước này. Tháng 3 năm 1909, Phan Bội Châu bị chính phủ Nhật trục xuất.
Nguyễn Tất Thành đã suy nghĩ cân nhắc kỹ tất cả các vấn đề nói trên. Thực ra ý tưởng đi về phương Tây tìm chân lý đã nhen nhóm trong đầu óc con người thiên bẩm thông minh và có trực giác chính trị nhạy bén này từ rất sớm.
Nhiều năm sau Nguyễn Tất Thành kể: “Năm mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe mấy từ tiếng Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái... Lúc bấy giờ tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau mấy từ ngữ này”[1].
“Thủa ấy người Việt Nam, trong đó có cụ thân sinh tôi, thường hỏi nhau ai sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ; sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào mình.”[2].
Từ bé Tất Thành đã được đọc không ít Tân thư từ Trung Quốc bí mật đưa sang ta. Đó là các tác phẩm của những nhà khai sáng phương Tây được người Nhật dịch sang chữ Hán-Nhật rồi người Trung Quốc chuyển ngữ thành chữ Hán. Nhờ đó anh chẳng những biết về các tư tưởng dân chủ tự do mà còn hiểu được vì sao nước Nhật xưa kia nhỏ yếu lạc hậu nhưng lại nhanh chóng trở thành cường quốc — đó là do họ học được cái hay cái tốt từ phương Tây, nơi phát xuất những tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại.
Sau khi phong trào Đông Du bị dập tắt, Nguyễn Tất Thành càng hiểu rõ: truyền thống chuyên chế của phương Đông còn có ảnh hưởng rất lớn ở Nhật; dù sao Nhật cũng chỉ là học trò của phương Tây; đã học thì phải tìm thầy mà học! Vả lại mình còn trẻ, khỏe, có thể đi tới những chân trời xa hơn.
Có lẽ là với những suy nghĩ trên, Nguyễn Tất Thành quyết định đi về phương Tây, như các nhà cải cách người Nhật hồi thập niên 60-90 thế kỷ XIX từng đi.
Đến tận các xứ sở tiêu biểu của văn minh phương Tây để học hỏi và tìm đường cứu dân cứu nước — sự lựa chọn sáng suốt và dũng cảm này đã làm cho sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Tất Thành thành công rực rỡ và cũng khiến nhà cách mạng ấy có những phẩm chất nhân văn trội hơn các lãnh tụ khác của dân tộc ta cũng như của nhiều nước Á Đông, qua đó được thế giới thực sự thán phục.
Hành trình vạn dặm tìm đường cứu nước
Cảng Marseilles nước Pháp là đích cuối cùng của con tàu chở Nguyễn Tất Thành, nhưng chàng trai ấy không dừng chân tại Pháp mà tiếp tục đi đến nhiều nước châu Âu và châu Phi để thỏa chí tìm hiểu thế giới.
Sau cùng Nguyễn Tất Thành vượt Đại Tây Dương tới dừng chân ở nước Mỹ. Đây là xứ sở đầu tiên trên Trái Đất sáng lập nên nhà nước chế độ cộng hòa dân chủ trong khi cả thế giới còn chìm đắm dưới chế độ phong kiến, vì thế được Các Mác ca ngợi là “Thí dụ hoàn thiện nhất về quốc gia hiện đại”. Trước tiên anh tới thành phố Boston, địa danh tiêu biểu của cách mạng Mỹ, còn gọi là Cái nôi của tự do (Cradle of Liberty). Đất nước rộng lớn và giàu có với nền dân chủ nổi tiếng này chỉ sau một thế kỷ dựng nước đã trở thành cường quốc số một thế giới; do đó nơi đây có vô vàn cái hữu ích để anh quan sát tìm hiểu.
Hơn một năm ở nước Mỹ để lại cho Nguyễn Tất Thành những ấn tượng tốt đẹp về quốc gia mà thập niên 40 Hồ Chí Minh mong muốn bắt tay, song tiếc thay những éo le lịch sử đã cản trở ý tưởng sáng suốt ấy trở thành hiện thực.
Rời Mỹ, Tất Thành đến xứ sở anh từng biết là nơi đầu tiên trên Trái Đất có luật bảo đảm quyền con người. Đó là nước Anh với bộ Hiến pháp cơ bản Magna Charta do hoàng đế John ban hành năm 1215, trong đó Điều 40 quy định: Không được bắt giữ, giam cầm ... người dân khi chưa có phán quyết của pháp luật. Bản Hiến pháp tiến bộ ấy đã cưu mang nhiều nhà cách mạng Nga, Đức... bỏ tổ quốc ra đi vì không chịu được cuộc sống mất tự do.
Các Mác từng tị nạn chính trị ở London 34 năm cuối đời. Đại hội II đảng Công nhân Xã hội dân chủ Nga do Lê Nin chủ trì cũng họp tại đây năm 1903. Chế độ bảo đảm tự do dân chủ và nhân quyền đã tạo điều kiện cho nước Anh (chứ không phải Đức!) tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp vĩ đại ngay từ giữa thế kỷ XVIII, tạo ra sức sản xuất lớn chưa từng thấy, đưa nền văn minh nhân loại tiến sang giai đoạn phát triển cao là văn minh công nghiệp. Nước này có quá nhiều thứ để Nguyễn Tất Thành tìm hiểu, học hỏi.
Qua sáu năm ở Mỹ và Anh, sống chung với chủng tộc Anglo-Saxon đặc biệt tôn sùng tự do dân chủ, bình đẳng, nhân quyền, Nguyễn Tất Thành thấy rõ đó là những giá trị phổ quát của loài người. Nhận thức ấy sau này được Hồ Chí Minh dõng dạc tuyên bố trước toàn thế giới trong lời mở đầu tác phẩm nhà cách mạng này coi là ưng ý nhất của mình — bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành đến Pháp, dùng nơi này làm địa bàn tiến hành các hoạt động lật đổ chế độ thực dân. Lựa chọn ấy rất đúng. Người Pháp nổi tiếng thế giới vì có truyền thống cách mạng hào hùng, năm 1793 họ từng chặt đầu cả vua lẫn hoàng hậu — một chuyện chưa ai dám làm. Bầu không khí chính trị luôn sôi sục ở đây rất thuận tiện để hoạt động cách mạng.
“Mẫu quốc” luôn gắn chặt với thuộc địa; các chuyến tàu buôn, tàu chở khách, tàu đưa thư đi lại tấp nập giữa Pháp với Việt Nam; nhờ đó Nguyễn Tất Thành có dịp nắm được tình hình trong nước và gửi thư từ tài liệu về cho các đồng chí của mình. Hàng nghìn người Việt sống tại Pháp là cơ sở để anh làm công tác tuyên truyền vận động gây dựng phong trào quần chúng.
Ở đây anh kết bạn với nhiều nhà cách mạng Việt Nam và quốc tế, hăng hái ra báo, viết báo và tham dự các sinh hoạt chính trị của người Pháp. Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành vào đảng Xã hội Pháp với lý do đây là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái, lý tưởng anh hướng tới từ năm 13 tuổi.[3]
Sau đấy anh đại diện nhóm người Việt Nam yêu nước ở Pháp trao cho Hội nghị Hoà bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân Việt Nam. Từ đó anh lấy tên Nguyễn Ái Quốc và có vai trò ngày càng nổi bật trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc trở thành đảng viên đảng Cộng sản Pháp. Sau này anh kể: Nhờ đó “Tôi đã tìm thấy chân lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã từ một người yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa”.[4]
Có thể thấy thập niên 1911-1920 là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc khảo sát, nghiên cứu để tìm con đường giải phóng dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách thống trị của thực dân, phong kiến. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã giúp Nguyễn Ái Quốc lựa chọn được con đường đúng đắn: đó là con đường cách mạng vô sản. Nói đúng đắn vì chỉ con đường ấy mới bảo đảm giành được thắng lợi. Dĩ nhiên cách mạng chỉ thắng lợi khi lực lượng cách mạng mạnh hơn lực lượng thù địch. Muốn vậy phải dựa vào giai cấp nông dân và công nhân chiếm hơn 90% số dân; họ sẽ trở thành sức mạnh vô địch nếu được tuyên truyền giáo dục, vận động, tổ chức tốt.
Cần nhấn mạnh: Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu dân cứu nước mình sau hơn chục năm sống, học tập và hoạt động cách mạng ở phương Tây, nơi phát xuất và đề cao các tư tưởng tự do dân chủ bình đẳng hợp xu thế thời đại, chứ không phải ở phương Đông thời ấy còn nặng truyền thống bảo thủ chuyên chế.
Phương Tây rực sáng dưới ánh đuốc của các tư tưởng nhân văn tiên tiến là nơi nhà cách mạng trẻ tuổi Nguyễn Tất Thành hình thành hệ thống nhận thức ban đầu của mình. Cần nhấn mạnh điều này để thấy đó là căn nguyên làm cho con người Hồ Chí Minh có những phẩm chất ưu tú khác với một số lãnh tụ cách mạng cùng thời của các dân tộc khác ở châu Á. Và cũng nhờ thế mà con đường Hồ Chí Minh lựa chọn cho dân tộc Việt Nam tránh được những xu hướng tả khuynh, độc đoán chuyên chế mà một số nước khác mắc phải.
Tiếp đó Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh dùng toàn bộ quãng đời còn lại vào việc trực tiếp tổ chức và lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường nói trên.
Trong 30 năm sau ngày rời tổ quốc ra đi, Nguyễn Tất Thành đã sống và hoạt động cách mạng ở Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc (5 nước này về sau đều là thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc), đã tiếp xúc với ba nền văn minh phương Tây, Nga, Trung Hoa, và thông thạo nhiều ngoại ngữ. Sự từng trải và thông thái ấy thể hiện trong mỗi lời nói và cử chỉ của nhà cách mạng này, khiến cả thế giới khâm phục.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp Quốc công nhận Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hoá. Tạp chí Time danh tiếng của Mỹ bình chọn Hồ Chí Minh là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ XX.Time dành những 5 số tạp chí in ảnh Hồ Chí Minh trên trang bìa, trong đó 4 lần chân dung nhà lãnh đạo dân tộc ta choán hết trang bìa [5].
Thử hỏi khắp 5 châu có mấy lãnh tụ được cả thế giới tôn vinh cao như vậy? Hồ Chí Minh trở thành một “nhãn hiệu” quốc tế cao quý gắn liền với dân tộc sinh ra con người ấy. Không người Việt nam nào dại dột từ bỏ vinh dự này.
Điều đó chứng tỏ cá nhân Hồ Chí Minh có vai trò hết sức nổi trội trong sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới. Không ai có thể phủ nhận nước Việt Nam được vẻ vang như ngày nay là nhờ may mắn có một người tài ba lỗi lạc dẫn đường. Con người ấy thấm nhuần hai nền văn hoá Đông Tây và các tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại, giàu sức sáng tạo, biết đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, biết khéo léo vận dụng mọi sức mạnh trong và ngoài nước, giỏi tận dụng thời cơ, có tài cảm hóa thu hút tất cả mọi tầng lớp xã hội.
Nhà tư tưởng R.W. Emerson từng nói: “Một cộng đồng chỉ cần có một người thông thái thì tất cả mọi người sẽ trở nên thông thái nhờ sức cảm hóa của người đó”[6].
Tháng 9 năm 1945, Việt Nam trở thành nước châu Á đầu tiên giành được độc lập và tạo dựng nên chế độ cộng hòa dân chủ. Nếu không có một người thông thái là Hồ Chí Minh dẫn dắt và cảm hóa thì chuyện thần kỳ ấy sao có thể xảy ra được trong một nước nhược tiểu, 95% dân mù chữ, giai cấp công nhân còn nhỏ bé và thực ra chỉ là những người nông dân làm thợ? Đồng lòng đi theo tiếng gọi của một người ưu tú nhất, tín nhiệm nhất, 25 triệu đồng bào ta hồi ấy dù còn ngu muội, lạc hậu đã làm nên sức mạnh dời non lấp biển lật đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến, phát xít.
Chuyến đi tìm đường cứu nước ngày 5 tháng 6 năm 1911 của Nguyễn Tất Thành đã làm thay đổi vận mệnh tổ quốc Việt Nam, đưa đất nước ta tiến sang một giai đoạn phát triển rực rỡ chưa từng thấy. Để thiết thực kỷ niệm chuyến đi ấy, chúng ta hãy mãi mãi đi theo con đường đúng đắn mà Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã dày công lựa chọn.
Hồ Anh Hải
[1, 2, 3, 4] Theo Hồ Chí Minh - Tiểu sử, Bảo tàng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội, 2008.
[5] http://phamxuannguyen.vnweblogs.com/post/1958/231992
[6] Võ Sĩ Đạo – Linh hồn Nhật Bản. NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2006