Trang nhà > Hà Nội > Nhân vật > Giang Văn Minh (1573 - 1638)
Giang Văn Minh (1573 - 1638)
Chủ Nhật 5, Tháng Sáu 2011, bởi
Giang Văn Minh [1] tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung, là quan nhà Lê trung hưng. Ông được mệnh danh vị sứ thần “Bất nhục quân mệnh” (Không để nhục mệnh vua) vì đã đối đáp hiên ngang trước triều đình Trung Quốc dù phải bị vua Minh Tư Tông giết vào năm 1638 ở tuổi 65.
Nhà thờ Giang Văn Minh ở Đường Lâm
Tiểu sử
Ông sinh năm 1573, tại làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Ông lận đận mãi vì chiến tranh nhưng cuối cùng đã đỗ đầu kỳ thi Hội, rồi thi Đình lại đỗ Thám hoa khoa Mậu Thìn, năm Vĩnh Tộ thứ 10 đời Lê Thần Tông (1628), khi đã 55 tuổi. Khoa thi này không có ai đỗ Trạng nguyên hay Bảng nhãn, vì vậy Thám hoa là cao nhất. Sau đó ông được bổ nhiệm làm quan, lần lượt giữ chức Binh khoa đô cấp sự trung (1630) rồi Thái bộc tự khanh (1631).
Ngày 30 tháng 12 năm Dương Hòa thứ 3 (1637), ông và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua cử làm chánh sứ cùng với 4 phó sứ là: Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh. Sau khi chết, ông được truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công.
Giai thoại
Vào thời Giang Văn Minh đi sứ, mặc dù nhà Mạc đã bỏ chạy lên Cao Bằng, nhưng nhà Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt (với cả nhà Lê trung hưng và nhà Mạc) nhằm mục đích để Đại Việt suy yếu vì nội chiến kéo dài. Đoàn sứ bộ của nhà Lê đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh) vào năm 1638.
Đến khi triều kiến, Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (tức hoàng đế Sùng Trinh) lấy lý do “Vì lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó trong khi còn chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ” nhằm trì hoãn việc công nhận chính thức nhà Lê trung hưng và bãi bỏ ngoại giao với nhà Mạc.
Tương truyền nhân dịp sinh nhật vua Minh, sứ giả các nước triều cống đều mũ áo chỉnh tề, đem lễ vật đến mừng thọ. Chỉ mỗi Giang Văn Minh là không thấy mặt. Vua nổi giận, cho thị vệ vào công quán đòi sứ giả. Bọn lính đến nơi thấy sứ thần Đại Việt đang nằm trên giường ôm mặt khóc. Đem lệnh tuyên triệu ra bắt buộc, ông mới thất thểu đi theo chúng vào triều kiến nhà vua. Trả lời câu hỏi về lý do vắng mặt, Giang Văn Minh tâu trình:
- Chúng tôi tự biết việc dự lễ khánh thọ là hệ trọng, vắng mặt thật là điều trọng tội, kính xin thánh hoàng lượng thứ cho. Nguyên do chỉ vì hôm nay lại đúng vào ngày giỗ tổ của thần. Thần được nhận trọng trách đi sứ xa quê hương lâu ngày, gia đình ở quê thì neo đơn, đến ngày giỗ tổ mà không thắp được cây hương tưởng niệm thì thấy xót xa trong dạ. Vì vậy mà không thể nào tham dự được cuộc vui.
Nói xong, ông lại khóc ầm lên. Vua Minh bỗng bật cười:
- Tưởng làm sao chứ như thế thì việc gì phải khóc. Cũng đáng khen cho nhà ngươi biết giữ hiếu kính với tổ tiên. Nhưng nếu là giỗ cha, giỗ mẹ thì còn có thể được, chứ ông tổ xa xôi như vậy thì có gì đáng phải băn khoăn cho lắm. Người khuất, chuyện xa đã đến mấy đời, thì cũng có thể “miễn nghị”.
Vị sứ giả Đại Việt lau nước mắt, ngẩng đầu lên, giọng trầm và kiên quyết:
- Muôn tâu, lời dạy của thánh hoàng thật là quý báu. Chính thần cũng đã nghĩ như vậy, mà vẫn không an tâm, vì thần vẫn thấy trong đời, lắm chuyện xa xôi mà không được “miễn nghị”. Chẳng hạn như việc thiên triều bắt nước Nam của thần phải cống nạp người vàng để trả nợ Liễu Thăng chết cách đây hàng mấy trăm năm. Mãi đến bây giờ cũng chưa miễn nghị. Nay được lời thánh hoàng ban dạy, thần cũng xin gác lại ngày giỗ tổ để cùng vui với buổi khánh tiết này. Cúi xin thánh hoàng từ đây “miễn nghị” cho cái nợ Liễu Thăng, cho tình giao hảo hai nước khỏi bị những chuyện xa xôi kia làm bận bịu...
Vua Minh ngớ người ra! Lý lẽ của Giang Văn Minh thật mềm mỏng, ôn hòa mà chặt chẽ, kín kẽ. Vua đành gật đầu, cho bãi bỏ lệ cống người vàng. Tuy vậy, phải đến triều nhà Thanh, vua Quang Trung mới tự chấm dứt vĩnh viễn cái lệ này.
Mộ Giang Văn Minh ở Đường Lâm
Giai thoại còn tiếp tục. Những ngày ở lại kinh đô nhà Minh, Giang Văn Minh vẫn tỏ thái độ cứng cỏi. Có lần sau những ngày mưa gió, trời nắng to, thiên hạ ai cũng đi dạo chơi, ngắm cảnh, riêng ông lại nằm nhà, ra sân, phanh bụng để... phơi nắng! Bọn quan chức Tàu hỏi tại sao, thì ông nói:
- Lâu nay học hành, sách vở thánh hiền đều thu cả vào trong bụng. Bên nước các ông, thời tiết dịp này ẩm ướt quá. Hôm nay được trời nắng to phải phơi bụng ra cho chữ trong ấy khỏi mốc!
Câu trả lời hóm hỉnh nhưng bọn quan lại cho là ông có ý khinh bỉ đạo Nho của Tàu. Cái nước An Nam nhỏ bé thế mà có người lại dám ngông nghênh xấc xược! Chúng tâu lại với vua Minh, nhà vua cũng tự ái, muốn nhắc lại cho sứ giả biết rằng xưa kia nước Nam đã có nghìn năm nội thuộc thiên triều. Bởi vậy vua tôi liền bày trò thử tài chữ Nho, và ra đề cho Giang Văn Minh bằng một vế đối như sau:
- “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”
Nghĩa là:
Cột đồng đến nay rêu đã xanh.
Câu này có hàm ý nhắc tới việc Mã Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong).
Trước sự ngạo mạn đó, Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu:
- "Đằng Giang tự cổ huyết do hồng"
Nghĩa là:
Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ.
Vế đối này vừa chỉnh, vừa có ý nhắc lại việc người Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng.
Vào thời bấy giờ, câu đối này được xem là cái tát thẳng vào mặt hoàng đế nhà Minh trước đông đảo văn võ bá quan của Thiên triều và sứ bộ các nước. Vua nhà Minh bừng bừng lửa giận bất chấp luật lệ bang giao, đã trả thù bằng cách trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”. Sự việc này xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Nhưng Minh Tư Tông vẫn phải kính trọng cho ướp xác Giang Văn Minh bằng bột thủy ngân và đưa thi hài ông về nước. Sau khi thi hài về đến Kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng đích thân bái kiến linh cữu Giang Văn Minh và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công, ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (tức là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ).
Giang Văn Minh được chôn cất tại Đồng Dưa, thuộc xứ Gò Đông, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm. Trên cánh đồng này có một quán xá nhỏ là nơi linh cữu ông đã được quàn, dân gọi là quán Giang.
Hiện nay, nhà thờ ông ở làng Mông Phụ đã được nhà nước Việt Nam xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa, và có một con đường mang tên Giang Văn Minh, nối phố Giảng Võ với phố Kim Mã, thuộc quận Ba Đình, Hà Nội.
Tác phẩm
Văn thơ ông thất tán vẫn chưa tìm ra, nhưng có một dấu tích là Hoa Nghiêm tự bi: trên tấm bia của chùa Hoa Nghiêm ở thôn Vô Song, xã Đông Hà, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình có ghi rõ người soạn văn bia năm Dương Hòa thứ 2 (1636) là Phúc Lộc hầu Giang Văn Minh, đỗ thám hoa khoa Mậu Thìn, chức Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, Thái bộc tự khanh.
[1] Tên chữ Hán: 江 文 明