Trang nhà > Tư duy > Cổ điển > Đào Tấn (1845-1907)
Đào Tấn (1845-1907)
Thứ Năm 18, Tháng Giêng 2007
Nhà soạn tuồng xuất sắc thế kỷ XIX Đào Tấn thuộc dòng dõi Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ. Ông tự là Chỉ Thúc, hiệu Tô Giang, Mộng Mai, Mai Tăng, quê làng Vĩnh Thịnh, tổng Nhơn Ân, nay là huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
Tiểu sử
Đào Tấn sinh năm 1845 (Ất Tỵ), đời Minh Mệnh. Đỗ Cử nhân khoa 1864, rồi làm quan trong thời kỳ Pháp xâm lược và cai trị nước ta, ông thăng dần lên Tổng đốc Nghệ An, Phủ doãn Thừa Thiên, Thượng thư Bộ Công, rồi Hiệp tá Đại học sĩ.
Chính trong hai đợt làm quan ở Nghệ An ông đã viết thêm, chỉnh lý một số vở tuồng và sáng tác nhiều văn thơ đặc sắc, cũng như đã hết lòng giúp đỡ chàng thư sinh yêu nước Phan Bội Châu. Bên cạnh đó cảnh và người xứ Nghệ cũng là đề tài và cảm hứng sáng tác của Đào Tấn. Thời gian làm quan ở Thừa Thiên, ông trú tại Mai Viên nằm trên đường Ngự Viên - nay là đường Nguyễn Du, tp Huế. Ông nổi tiếng thanh liêm, công bằng, giỏi văn chương. Chính ông đã sáng lập ra bộ môn Hát bội ở Bình Định và được suy tôn là Hậu tổ của ngành Hát bội Việt Nam. Tại quê nhà, sau khi về ở ẩn khoảng năm 1904, ông có mở một trường dạy kịch nghệ gọi là "Học bộ đình".
Tác phẩm
Đào Tấn mất năm 1907 (Đinh Mùi), hưởng dương 62 tuổi. Ông để lại nhiều tác phẩm tuồng có giá trị, có loại là kịch bản cũ được chỉnh lí như "Sơn Hậu", "Tam nữ đồ vương", "Đào Phi Phụng"; có loại là kịch bản mới như "Diễn võ đình", "Trầm hương các", "Hoàng Phi Hổ quá giới bài quan", "Hộ sinh đàn", "Hồi trống cổ thành", "Quần trân hiếu thoại", "Tứ quốc lai vương", "Quan Công quá quan", "Khuê các anh hùng", "Tân dã",... Ông còn sáng tác khá nhiều tác phẩm văn thơ như: Mộng Mai thi tồn, Mộng Mai tử lục, Mộng Mai ngâm thảo, Mộng Mai văn sao, hầu hết viết bằng chữ Hán,...
Xem online : Tuồng