Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Giáo dục > Đào tạo > Xây dựng một hệ thống giáo dục mở và từ xa mạnh để phát triển bền vững giáo dục đại (...)

Xây dựng một hệ thống giáo dục mở và từ xa mạnh để phát triển bền vững giáo dục đại học

Thứ Sáu 15, Tháng Bảy 2011

(trường hợp Việt Nam)*
Tóm tắt
Số lượng sinh viên đại học Việt Nam tăng rất nhanh trong thập niên vừa qua, đạt khoảng 1,7 triệu vào cuối năm 2009. Trong tổng số sinh viên có gần một nửa là sinh viên không chính quy (KCQ), chủ yếu được đào tạo theo kiểu mang sắc thái học tập mở và từ xa (GDM&TX). Chất lượng của sinh viên KCQ rất thấp, nên họ được cấp loại bằng có hình thức khác với bằng cho sinh viên chính quy. Cho đến nay chưa có một giải pháp hữu hiệu nào để nâng cao chất lượng loại sinh viên KCQ. Sẽ là vô nghĩa nếu nói đến chất lượng giáo dục đại học mà không kiểm soát được chất lượng của gần một nửa tổng số sinh viên đại học nói trên.
Một trong những nguyên nhân chính tạo nên chất lượng thấp của sinh viên KCQ là ở chỗ họ học theo hình thức GDM&TX nhưng bằng một quy trình đào tạo mặt-giáp-mặt với nhiều khiếm khuyết chứ không phải bằng công nghệ GDM&TX thích hợp, đặc biệt là công nghệ để đào tạo một số lượng lớn sinh viên. Các yếu tố quan trọng của một công nghệ như vậy là: 1) một hệ thống tài liệu học tập tốt cho sinh viên, 2) một hệ thống công cụ thích hợp để đánh giá kết quả học tập, và 3) một hạ tầng đa phương tiện và ICT** tốt để dạy và học. Cơ sở công nghệ như vậy cho GDM&TX đòi hỏi một nguồn tài chính ban đầu lớn để trang bị. Các trường đại học nòng cốt cho GDM&TX đã được thành lập ở Việt Nam từ năm 1993, nhưng không may là cho đến nay họ chưa được nhận một nguồn đầu tư đáng kể nào từ Nhà nước.
Bài viết đề xuất một biện pháp để nâng cao chất lượng của sinh viên KCQ trong hệ thống GDĐH Việt Nam. Ý tưởng chính của biện pháp này là đối với sinh viên KCQ phải chuyển từ quy trình đào tạo mặt-giáp-mặt với nhiều khiếm khuyết do các trường đại học thông thường thực hiện sang công nghệ ODL*** “chuyên nghiệp” thích hợp do các trường đại học mở và từ xa cung cấp. Để ý tưởng đó trở thành hiện thực và khả thi, cần thực hiện một số hành động: 1) Nhà nước cần cấp cho các đại học mở các đầu tư lớn ban đầu để họ xây dựng được các công nghệ ODL thích hợp nhằm giảng dạy một số lớn sinh viên không chính quy; 2) Các đại học mở cần được tổ chức lại bằng cách hợp tác với các trường đại học quan trọng trong nước; 3) Nhà nước cần đưa ra các chủ trương để: - Đòi hỏi mọi trường đại học thông thường phải sử dụng công nghệ ODL thích hợp do các đại học mở tạo ra nếu họ muốn đào tạo sinh viên KCQ; - Chấp nhận sự tương đương về giá trị của các văn bằng cấp cho sinh viên KCQ so với các văn bằng cấp cho sinh viên chính quy.
Chúng tôi hy vọng rằng biện pháp đã đề nghị sẽ giúp đảm bảo chất lượng của hệ thống đào tạo KCQ ở Việt Nam và biến các đại học mở thành các thực thể nối liền thống giáo dục đại học chính quy với xã hội học tập.

1. VỀ HIỆN TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM VÀ VÀI GAY CẤN LỚN
1.1 Thập niên vừa qua chứng kiến một sự phát triển rất nhanh về quy mô giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam. Để hình dung sự phát triển đó, có thể xem thống kê ở Bảng 1.
Bảng 1: Vài số liệu về giáo dục đại học Việt Nam cách nhau một thập niên

Năm Số trường Đại học Cao đẳng Số GV =>TS TS/GV Số SV SV/GV
1999 153 69 84 30.309 6.053 20% 893.754 29,5
2009 376 150 226 61.190 8.503 14% 1.719.499 28,1

(Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Từ Bảng 1 có thể thấy qua một thập niên xu hướng phát triển GDĐH như sau: số lượng các trường cao đẳng (CĐ)/đại học (ĐH) tăng nhanh (khoảng 2,5 lần), số lượng sinh viên (SV) cũng tăng nhanh (khoảng 2 lần); trong khi đó số lượng giảng viên (GV) tuy tăng kịp mức tăng của số lượng SV (khoảng 2 lần), nhưng tỷ số SV/GV không cải thiện được bao nhiêu (vẫn cỡ gần 30). Đặc biệt, tỷ số đội ngũ từ tiến sĩ trở lên (TS, PGS, GS) so với toàn bộ GV thì giảm từ 20% xuống 14%, chứng tỏ chất lượng đội ngũ GV giảm. Từ đó có thể thấy xu hướng tất yếu là chất lượng GDĐH giảm.
Thấy được vai trò của đội ngũ GV trong tiến trình phát triển GDĐH, Quyết định 09/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giai đoạn 2005-2010” đã nêu các chỉ tiêu kế hoạch như sau: năm 2010 tỷ lệ SV/GV phải là 20, tỷ lệ TS/GV phải là 25%; thế mà trong thực tế năm 2009 ở Bảng 1 cho các con số tương ứng là 28,1 và 14%, tức là sự phát triển thực tế quá thấp so với kế hoạch. Điều đó chứng tỏ phát triển số lượng GV là một bài toán rất khó đối với các cơ sở GDĐH. Cán bộ quản lý nhiều cơ sở GDĐH cho rằng bài toán này rất khó giải vì 2 lý do quan trọng. Một là nguồn lực của nhà trường để đảm bảo trả lương và tăng lương cho GV hiện nay đang rất khó khăn, do đó khó có thể nhanh chóng tuyển dụng GV mới. Hai là rất khó tuyển loại SV tốt nghiệp giỏi về trường, vì mức lương trả cho GV ở trường quá thấp so với trả cho người có năng lực tương đương ở các doanh nghiệp, chưa nói đến vị thế của người GV khá thấp trong xã hội. Như vậy, số lượng và chất lượng đội ngũ GV là một gay cấn lớn trong sự phát triển GDĐH nước ta.
1.2 Chúng ta hãy xét một khía cạnh khác về số lượng SV. Trong GDĐH Việt Nam có nhiều loại hình đào tạo, tuy nhiên có thể phân chia thành hai nhóm lớn: đào tạo chính quy (CQ) và không chính quy (KCQ). Đào tạo KCQ thường theo hình thức vừa làm vừa học, học ban đêm, học tại địa phương v.v… Nói chung kiểu đào tạo KCQ mang nhiều đặc điểm của phương thức giáo dục mở và từ xa (GDM&TX): phần lớn địa điểm đào tạo xa trường, tần suất gặp mặt giữa người dạy và người học thấp. Theo thống kê chính thức tổng số SV KCQ vào năm 2007 là 843.473, chiếm 49,79% tổng số SV (1.676.117) SV (1).
Liên quan với loại hình đào tạo KCQ chúng ta hãy lưu ý đến vài số liệu thống kê khác. Bảng 2 cung cấp số lượng SV KCQ của 14 trường đại học trọng điểm quốc gia và 2 ĐH mở vào năm học 2007-2008.
Bảng 2: Số lượng sinh viên không chính quy trong một số trường đại học quan trọng tại Việt Nam

TT Trường Số SV KCQ KCQ/SV TT Trường Số SV KCQ KCQ/SV
1 QGia HN 43.062 24.249 56,3% 9 Nnghiệp HN 19.538 8.867 45,4%
2 QG HCM 74.368 29.512 39,7% 10 Y HN 3.018 240 8,0%
3 ĐH Huế 41.407 18.300 44,2% 11 Sphạm HN 16.970 9.166 54,0%
4 Thái Nguyên 52.052 29.000 55,7% 12 Ktế HCM 44.323 23.460 52,9%
5 Đà Nẵng 45.777 17.198 37,6% 13 YDược HCM 6.836 1.625 23,8%
6 Cần Thơ 32.433 10.963 33,8% 14 Sphạm HCM 19.476 12.461 64,0%
7 Bkhoa HN 42.411 20.389 48,1% 15 Mở HN 16.363 7.490 45,8%
8 KTQD HN 39.861 24.903 62,5% 16 Mở HCM 19.049 4.778 25,1%
Tổng 516.944 242.601 46,9%

(Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Theo quy định của Nhà nước, các ĐH trọng điểm phải là các ĐH đi đầu trong việc đào tạo chất lượng cao và trình độ cao để làm tấm gương và chỗ dựa cho cả hệ thống GDĐH, còn 2 ĐH mở có chức năng đặc biệt là đào tạo bằng phương thức GDM&TX. Tuy nhiên từ số liệu ở Bảng 2 chúng ta có thể thấy: các ĐH trọng điểm, kể cả 2 ĐH quốc gia, đều có số SV KCQ đông đảo, có trường lên đến hơn 60% (ĐH Kinh tế Quốc dân Hà Nội, ĐH Sư phạm tp. HCM). Có một nghịch lý là số SV KCQ ở 2 ĐH mở Hà Nội và tp. HCM, các trường có chức năng chính là đào tạo KCQ (theo các phương thức GDM&TX), lại ở mức thấp hơn so với nhiều trường ĐH trọng điểm có nhiệm vụ tập trung đào tạo chất lượng cao. Rõ ràng bức tranh được phản ánh qua số liệu ở Bảng 2 cho thấy các ĐH mở đã được biến thành các “ĐH khép”, và một số ĐH trọng điểm quốc gia trở thành gần như các ĐH mở (!).
Phần lớn SV KCQ của các trường đại học thông thường (conventional) được đào đào tạo theo kiểu GDM&TX nhưng không sử dụng hệ thống công nghệ chuẩn mực của GDM&TX để đảm bảo chất lượng đào tạo cho số đông. Ở đây chúng tôi quan niệm hệ thống công nghệ nói trên bao gồm hệ thống học liệu tốt và thích hợp, hệ thống công cụ đánh giá kết quả học tập chuẩn mực và một hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông tương đối đảm bảo. Việc xây dựng một hệ thống công nghệ như vậy mất nhiều công sức và tốn kém, không phải mọi trường đại học thông thường đều làm được để sử dụng cho riêng mình. Do đó việc đào tạo KCQ của các trường đại học thông thường phần lớn theo xu hướng: SV học trong điều kiện GDM&TX nhưng được đào tạo theo một “công nghệ yếu” của giáo dục mặt-giáp mặt thông thường. Chẳng hạn, trước hết, tiêu chuẩn tuyển sinh đầu vào cho hệ KCQ thường rất thấp so với hệ CQ. Hơn nữa, cách tổ chức dạy và học tương đối phổ biến cho hệ KCQ thường là như sau: SV được triệu tập trong một vài tuần lễ ở một địa phương xa trường đại học, giảng viên được gửi xuống địa điểm đó để thuyết giảng dồn dập, cuối đợt giảng viên tổ chức đánh giá môn học ngay tại chỗ, và thường SV nào cũng đạt yêu cầu môn học. Thực trạng của việc đào tạo KCQ như vậy các trường đại học cũng như ở các cơ quan quản lý giáo dục đều biết, nhưng chất lượng thấp của hệ đào tạo này được xem là hiển nhiên. Chấp nhận tình trạng này, Luật Giáo dục năm 1998 quy định trong bằng tốt nghiệp mà mọi trường cấp cho SV phải ghi tường minh loại hình đào tạo (KCQ hoặc CQ). Tuy nhiên, có lẽ để khắc phục tình trạng này, Luật Giáo dục năm 2005 đã cải tiến, xoá bỏ quy định trên, tức là ngược lại, buộc các trường đại học phải đảm bảo sự tương đương của bằng tốt nghiệp mà họ cấp cho các loại hình đào tạo khác nhau ở trường mình. Tuy nhiên qua thăm dò gần đây của chúng tôi, phần lớn các trường đại học vẫn ghi loại hình đào tạo vào văn bằng, vì chất lượng thực tế của hai loại SV quá khác nhau. Nói cách khác: ý tưởng của Luật Giáo dục 2005 muốn tạo sự tương đương về chất lượng của 2 loại hình đào tạo KCQ và CQ là không khả thi.
Chất lượng kém của GDĐH Việt Nam là vấn đề gay cấn lớn cần có biện pháp giải quyết. Tuy nhiên sẽ là vô nghĩa nếu trong các giải pháp nâng cao chất
lượng GDĐH không chú ý đến loại hình đào tạo KCQ, một loại hình chiếm gần một nửa tổng số SV. Như vậy chất lượng kém của loại hình KCQ cũng là một gay cấn lớn đối với sự phát triển GDĐH ở nước ta.
2. VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO DỤC MỞ VÀ TỪ XA TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
Theo xu thế phát triển GDM&TX trong GDĐH trên thế giới, vào năm 1993 ở Việt Nam ta 2 ĐH mở đã được thành lập: Viện ĐH mở Hà Nội và ĐH mở bán công tp. HCM. Khi xác định chức năng của các trường này, trong các quyết định thành lập Nhà nước đều nhấn mạnh việc tập trung cho phương thức GDM&TX để thu hút đông đảo SV học tập với điều kiện mềm dẻo, không bị ràng buộc khắt khe như theo phương thức chính quy. Tuy niên, đã 16 năm qua Nhà nước chưa có đầu tư đáng kể nào cho 2 ĐH mở, đặc biệt cho phương thức đào tạo theo GDM&TX. Nguyên nhân chính là sự chỉ đạo và quản lý không bám theo đúng phương hướng được đề ra khi thành lập các trường này. Chẳng hạn, Bộ đã dùng cách cấp chỉ tiêu tuyển sinh chính quy (CQ) cho 2 ĐH này giống như cho các ĐH thông thường khác, và căn cứ vào đó để cấp ngân sách theo đầu SV CQ, mà không quan tâm đến loại hình SV đào tạo theo GDM&TX. 2 ĐH mở còn bị “bỏ quên” trong các Dự án, chẳng hạn Dự án GDĐH 2 với vốn vay của Ngân hàng Thế giới 2 ĐH mở không được tham gia. Trong mấy năm gần đây khi đầu tư kinh phí cho các trường CĐ và ĐH công lập, 2 ĐH mở Hà Nội và tp HCM được xếp vào loại "đơn vị tự đảm bảo kinh phí hoạt động", và nay là các đơn vị “tự chủ về tài chính”, tức là không được nhận đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Một điều đáng buồn là Dự án “Phát triển Giáo dục từ xa giai đoạn 2005-2010” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 164/2005/QĐ-TTg ngày 16/4/2005 mà cho đến nay (giữa năm 2010) hoàn toàn chưa được triển khai.
Thực ra phương thức GDM&TX đã được áp dụng trong một số dự án đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, trong đó các trường ĐH được giao thực hiện là ĐH Huế và ĐH Sư phạm Hà Nội. Rất tiếc là các dự án này không có sự tham gia của 2 ĐH mở, các trường được Nhà nước quy định tập trung cho chức năng GDM&TX .
Vì không được sự hỗ trợ thích đáng của Nhà nước nên cho đến nay, tuy bản thân đã tự cố gắng nhiều nhưng 2 ĐH mở không đủ sức xây dựng đầy đủ hệ thống công nghệ chuẩn mực của GDM&TX để đảm bảo chất lượng đào tạo cho số đông mà chúng tôi đã nêu ở phần I. Theo chúng tôi, đây là một khiếm khuyết về chiến lược chung phát triển GDĐH của đất nước chứ không phải chỉ là trách nhiệm của 2 ĐH mở.
3. VỀ KHẢ NĂNG ĐÓNG GÓP CỦA GIÁO DỤC MỞ VÀ TỪ XA ĐỂ GIẢI BÀI TOÁN LỚN VỀ QUY MÔ VÀ CHẤT LƯỢNG GDĐH VIỆT NAM
3.1 Việc tăng nhanh số lượng các trường ĐH/CĐ và số lượng SV trong thập niên vừa qua mà không đảm bảo được chất lượng GDĐH, như đã phân tích ở 1.1., chủ yếu là do không xử lý được bài toán tăng số lượng và chất lượng đội ngũ GV. Bài toán này không thể giải quyết được trong một thời gian tương đối ngắn. Vậy có cách nào để có thể tăng số lượng SV với chất lượng đảm bảo mà không đòi hỏi tăng quá nhanh tội ngũ GV hay không? Chính phương thức GDM&TX có thể giúp điều đó, vì nhờ công nghệ chuẩn mực của GDM&TX để đảm bảo chất lượng đào tạo cho số đông mà tỷ lệ SV/GV khi thực hiện phương thức giáo dục này có thể cao đến mức hàng trăm mà vẫn đảm bảo được chất lượng. Bản than Nghị quyết 14 về "Đổi mới cơ bản và toàn diện Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020" (2) cũng đã nêu: cùng với hệ thống cao đẳng cộng đồng, các ĐH mở là công cụ quan trọng để thực hiện đại chúng hoá GDĐH nước ta.
Nếu tăng cường đầu tư cho các ĐH mở để các ĐH này xây dựng được công nghệ chuẩn mực cho GDM&TX nhằm đào tạo cho số đông thì có thể sử dụng các ĐH này để lôi kéo một luồng lớn SV muốn vào đại học, giảm bớt sự gia tăng nhu cầu nhập học vào các trường ĐH thông thường, giúp Nhà nước có cơ chế giới hạn chỉ tiêu tuyển sinh vào các trường này trên cơ sở đảm bảo chất lượng và buộc các trường này phải nâng cao chất lượng để cạnh tranh. Luồng SV được đào tạo theo phương thức GDM&TX có thể lớn hơn nhiều luồng SV vào các trường ĐH thông thường nhưng chất lượng vẫn đảm bảo vì các ĐH mở có công nghệ chuẩn mực của GDM&TX để đảm bảo chất lượng đào tạo cho số đông, như đã nói trên đây. Muốn giải pháp này khả thi, các ĐH mở phải tạo niềm tin về công nghệ và chất lượng đào tạo của mình, và Nhà nước cần có chính sách đảm bảo sự đối xử bình đẳng về văn bằng của phương thức đào tạo chính quy và GDM&TX. Kinh nghiệm của các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc trong giai đoạn đại chúng hoá GDĐH của họ đã chứng tỏ hiệu quả cao của biện pháp này. Về việc áp dụng giải pháp này cho Việt Nam đã được phân tích rõ trong các đề xuất ở (3), (4) .
3.2 Đối với hệ KCQ, một hệ đang đào tạo gần nửa tổng số SV đại học Việt Nam, chúng tôi cho rằng cũng không thể xử lý tốt gay cấn liên quan đến hệ này nếu không chú ý đến việc áp dụng đúng đắn GDM&TX, vì như đã phân tích ở 1.2., thực chất phần lớn SV KCQ ở các trường đại học được đào đào tạo theo kiểu GDM&TX nhưng không áp dụng đúng đắn công nghệ chuẩn mực của loại hình này. Phần dưới đây xin tập trung vào giải pháp xử lý gay cấn về hệ KCQ.
4. XÂY DỰNG CÁC ĐẠI HỌC MỞ MẠNH ĐỂ LÀM NÒNG CỐT ĐÀO TẠO KHÔNG CHÍNH QUY VÀ KẾT NỐI GIỮA GDĐH CHÍNH QUY VỚI XÃ HỘI HỌC TẬP
4.1. Như đã phân tích ở 1.2, hệ đào tạo KCQ là một bộ phận quan trọng của GDĐH Việt Nam và chiếm hơn một nửa tổng số SV. Có thể nói chất lượng rất thấp của hệ đào tạo KCQ là một tồn tại nhức nhối của GDĐH Việt Nam hàng nhiều thập niên qua, đã được nói nhiều trên các phương tiện truyền thông đại chúng, thậm chí đã được bàn đến ở Quốc hội. Nhà nước đã đưa ra giải pháp để nâng cao chất lượng hệ đào tạo KCQ, cụ thể là Luật Giáo dục năm 2005 đã buộc các trường ĐH chỉ cấp một loại văn bằng cho cả hai phương thức đào tạo, như đã nêu ở 1.2, tuy nhiên chỉ một quy định đơn giản như vậy, dù rằng trong một văn bản quan trọng ở cấp cao, cũng khó giải quyết được vấn đề. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng trên chính là ở đây có sự gặp gỡ của nhu cầu cần bằng của một bộ phận SV KCQ, và việc cần tăng thu nhập của nhiều trường ĐH. Theo ý chúng tôi, muốn xử lý thành công gay cấn này ngành giáo dục phải thực hiện hàng loạt chủ trương rất mạnh bạo, mà thực chất là tận dụng phương thức GDM&TX với những lợi thế của khoa học và công nghệ hiện đại phục vụ việc đào tạo quy mô lớn nhưng chất lượng đảm bảo. Cốt lõi của công nghệ chuẩn mực của GDM&TX để đảm bảo chất lượng đào tạo cho số đông là hệ thống học liệu chất lượng cao và hệ thống công cụ đánh giá kết quả học tập chính xác, cùng với hạ tầng đảm bảo cho công nghệ thông tin và truyền thông.
Bước đầu tiên Nhà nước cần làm là tổ chức lại 2 ĐH mở và đầu tư thích đáng để 2 ĐH này xây dựng được công nghệ chuẩn mực của GDM&TX nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo cho số đông nói trên. Tổ chức lại 2 ĐH mở bằng cách tạo sự liên kết chặt chẽ 2 ĐH này với một số trường ĐH trọng điểm mạnh, sao cho 2 ĐH mở có thể huy động đội ngũ GV giỏi của các trường ĐH mạnh đó xây dựng hệ thống học liệu chất lượng cao cũng như công cụ đánh giá (ngân hàng câu hỏi) chuẩn xác cho mọi môn học của các chương trình phổ biến trong hệ thống GDĐH. Mô hình Open University Malaysia có thể là một ví dụ tham khảo tốt về việc liên kết với các trường ĐH khác để xây dựng 2 ĐH mở.
Ngoài nguồn nhân lực đã nêu trên đây, nguồn tài chính cũng rất quan trọng để xây dựng hệ thống công nghệ. Nhà nước cần đầu tư tập trung nguồn tài chính thích đáng để 2 ĐH mở thực hiện nhiệm vụ này. Đầu tư này của Nhà nước là đầu tư đem lại hiệu quả rất lớn trong tương lai: khi 2 ĐH mở có được hệ thống học liệu và hệ thống công cụ để đánh giá kết quả học tập như vậy, họ có thể thực hiện đào tạo một số đông SV với chất lượng đảm bảo, và kết cục là giá thành đào tạo tính trên đầu SV rất thấp. Đó là chưa kể hiệu quả của việc xử lý gay cấn về chất lượng thấp của SV KCQ trong toàn bộ nền GDĐH sẽ nói dưới dây.
4.2. Khi đã có 2 ĐH mở mạnh nhờ các nguồn học liệu và công cụ đánh giá chất lượng cao, Nhà nước có thể giao cho 2 ĐH mở làm nòng cốt trong việc đào tạo hệ KCQ trong toàn bộ hệ thống GDĐH. Làm “nòng cốt” có nghĩa là: bản thân 2 ĐH mở tự đào tạo một số rất lớn, có thể mấy trăm nghìn SV KCQ nhờ công nghệ chuẩn mực của GDM&TX đào tạo cho số đông, ngoài ra, các ĐH thông thường khác muốn đào tạo SV KCQ cũng được dựa vào nguồn học liệu và công cụ đánh giá kết quả học tập của 2 ĐH mở.
Việc chuyển đổi cách đào tạo hệ KCQ tràn lan hiện tại sang cách đào tạo hệ KCQ do 2 ĐH mở làm nòng cốt có thể thực hiện theo nhiều bước nhờ các biện pháp sau đây: 1) Kiên quyết yêu cầu các trường ĐH trọng điểm quốc gia (hoặc các trường ĐH tình nguyện khác) xoá bỏ hệ thống đào tạo KCQ với tiêu chuẩn thấp hơn hệ CQ. Điều này có thể hiện thực nếu Nhà nước đầu tư cao hơn cho các trường ĐH trọng điểm, hơn nữa, nếu các ĐH này được quyền tăng học phí cỡ gấp đôi mức hiện nay; 2) Giảm dần các chương trình đào tạo KCQ có chất lượng quá thấp của các trường ĐH khác, đặc biệt là các chương trình liên kết với các Trung tâm GD thường xuyên; 3) Đầu tư để thay thế phương thức đào tạo KCQ mặt-giáp-mặt nhờ công nghệ yếu bằng phương thức GDM&TX bằng công nghệ chuẩn mực để đảm bảo chất lượng đào tạo cho số đông.
Như vậy, ở một số trường ĐH tầng trên sẽ không còn hệ KCQ với chất lượng thấp hơn hệ CQ và sẽ không tồn tại chế độ 2 bằng, còn ở các trường ĐH tầng thấp sẽ tạm thời tồn tại hệ KCQ đào tạo không chuyên nghiệp với chất lượng thấp và chế độ 2 bằng cho đến khi xã hội và chính các trường đó sẽ không chấp nhận hệ đào tạo này.
Có thể nói việc tổ chức lại hệ thống đào tạo KCQ như vừa nêu thực chất là chuyển dịch đào tạo KCQ không chuyên nghiệp ở các trường ĐH thông thường sang đào tạo KCQ “chuyên nghiệp” (với công nghệ GDM&TX cho số đông) dựa vào các trường ĐH mở được tổ chức lại trên cơ sở liên kết với một số trường ĐH mạnh khác. Qua sự liên kết với 2 ĐH mở, có thể giải quyết cả bài toán tăng thu nhập cho GV ở các trường ĐH khác không còn hệ
KCQ.
4.3. Khi có 2 ĐH mở mạnh, Nhà nước có thể giao cho 2 ĐH mở nhiều trách nhiệm lớn hơn: đánh giá để cấp bằng cho những người tự học hoặc cho SV học ở các trường ĐH/CĐ chưa được quyền cấp bằng. Khi ấy 2 ĐH mở sẽ trở thành móc xích - liên thông giữa hệ thống GDĐH CQ với hệ thống KCQ, nói rộng ra là giữa hệ thống GDĐH CQ với xã hội học tập, khuyến khích và đảm bảo hiệu qủa cho hoạt động học thường xuyên suốt đời, một nhân tố quan trọng của GD trong thế kỷ 21.
KẾT LUẬN
Số lượng sinh viên đại học Việt Nam tăng rất nhanh trong thập niên vừa qua, đạt khoảng 1,7 triệu vào cuối năm 2009, trong đó có gần một nửa là sinh viên KCQ, chủ yếu được đào tạo theo kiểu GDM&TX, nhưng với công nghệ đào tạo mặt-giáp-mặt với nhiều khiếm khuyết. Chất lượng của sinh viên KCQ rất thấp, nhưng cho đến nay chưa có một giải pháp hữu hiệu nào để nâng cao chất lượng loại sinh viên này. Sẽ là vô nghĩa nếu nói đến chất lượng giáo dục đại học mà không kiểm soát được chất lượng của hơn một nửa tổng số sinh viên đại học nói trên.
Bài viết đã đề xuất một biện pháp để nâng cao chất lượng của sinh viên KCQ trong hệ thống GDĐH Việt Nam. Ý tưởng chính của biện pháp này là đối với sinh viên KCQ phải chuyển từ quy trình đào tạo mặt-giáp-mát với nhiều khiếm khuyết do các trường đại học thông thường áp dụng hiện nay sang một công nghệ GDM&TX “chuyên nghiệp” thích hợp do các trường đại học mở và từ xa làm nòng cốt.
Chúng tôi hy vọng rằng biện pháp đã đề nghị sẽ giúp đảm bảo chất lượng của hệ thống đào tạo KCQ ở Việt Nam và biến các đại học mở thành các thực thể nối liền hệ thống GDĐH CQ với xã hội học tập.
GS Lâm Quang Thiệp
TÀI LIỆU DẪN
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo. “Tài liệu Hội nghị Tổng kết công tác đào tạo không chính quy (giai đoạn 2003-2007)”. Hà Nội, 2/2008.
2. Nghị quyết của Chính phủ về "Đổi mới cơ bản và toàn diện Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020", số 14/NQ-CP, ngày 2/11/2005.
3. Lâm Quang Thiệp. "Giải quyết bài toán quan hệ giữa Số lượng và Chất lượng của Giáo dục Đại học nước ta" – Hội thảo “Đổi mới Giáo dục Đại học Việt Nam – Hội nhập và thách thức” – Hà Nội, 3/2004
4. Lâm Quang Thiệp. “Vai trò của giáo dục mở và từ xa đối với hệ thống giáo dục đại học nước ta trong thời kỳ mới”. Hội thảo khoa học quốc gia về giáo dục mở và từ xa. NXB Thế Giới. Hà Nội, 2009

CHÚ THÍCH
* Báo cáo chính tại Hội nghị thường niên lần thứ 24 của Hội các Đại học mở châu Á, Hà Nội, Việt Nam, 26-28 tháng 10, 2010.
** Công nghệ thông tin và truyền thông.
*** Giáo dục mở và từ xa.