Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Lịch sử > Cổ đại > Chiến tranh với Nam Chiếu

Chiến tranh với Nam Chiếu

Thứ Tư 3, Tháng Tám 2011

(Xem mục lục ở sau Lời mở đầu Việt Nam khai quốc)

Bản đồ Trung Hoa đời nhà Đường (màu tím). Nam Chiếu (Nam-Chao) ở địa thế Tây Bắc của An Nam (nguồn: Thư viện E-Book)

Điền Tại Hựu và Thôi Cảnh, hai người kế vị Bùi Nguyên Hữu, dường như đã được hưởng một tình hình khá ổn định trong thời gian ngắn mà họ cai trị Đô Hộ Phủ vào cuối những năm 840 và đầu thập kỷ 850. Về Điền Tại Hựu, thư tịch chép "ông làm tốt mọi việc nơi biên cương". Năm 852, Thôi Cảnh dựng một tấm bia kỷ niệm nhà thư pháp danh tiếng Chử Toại Lương mà năm 658 đã chết ở Đô Hộ Phủ sau khi bị vu cáo là phản nghịch và bị đày xuống An Nam. Ngoài các tin tức trên thì mãi đến năm 854 sử sách mới nhắc đến việc chính tay Đô Hộ Lý Trác đã làm tan rã việc phòng thủ biên giới ở An Nam. (46)

Lý Trác được biết đến như một người tồi tệ nhất trong số tất cả các Đô Hộ. Dân chúng địa phương thì oán ghét cách cai trị hà khắc của ông, còn người Trung Quốc thì lại đổ tội cho ông là đã gây nên cuộc chiến tranh với Nam Chiếu. Lý Trác nổi tiếng về những hành động vô cùng tàn ác, về sự tham nhũng, và tính tình nóng như lửa. Sai lầm lớn nhất của Lý Trác là việc ông bạc đãi các tù trưởng bộ lạc vùng núi.

Các tù trưởng vùng núi thường đem ngựa và trâu bò xuống vùng đồng bằng để đổi lấy muối theo các ước lệ đã có từ lâu. Đến thời Lý Trác thì ông tìm cách xử ép các tù trưởng bằng cách mỗi một con thú chỉ đổi được một đấu muối. Vì Lý Trác kiểm soát được tất cả lượng muối sản xuất được từ các làng muối ven biển, nên với cách trao đổi đó, ông hy vọng sẽ thu được thật nhiều ngựa và sau đó sẽ đem bán đi để làm giàu. Mặc dù sự việc này đã không được ghi lại một cách chi tiết, theo đó thì các tù trưởng vùng núi nhất định đòi ông phải trao đổi theo ước lệ cũ, nhưng Lý Trác không chịu, và đã ra lệnh cho quân lính của mình bắt các tù trưởng phải phục tùng. Thế là các tù trưởng vùng núi kéo quân xuống đồng bằng và tấn công các doanh trại của nhà Đường. Quá kiêu ngạo và không chịu nhượng bước, Lý Trác ra lệnh cho quân sĩ đánh trả, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, quá nửa quân sĩ của ông bị chết vì lam sơn chướng khí khi tấn công vào các vùng núi. Những quân lính còn sống sót thì kiệt sức vì phải chống trả liên miên trong khi quân lương ngày càng cạn kiệt.

Nhưng điều nguy hiểm nhất xảy ra là việc các tù trưởng vùng núi lại xin thần phục Nam Chiếu và tìm cách liên minh với các phần tử chống đối ách cai trị của nhà Đường ở An Nam. Liên minh này lại càng phát triển nhanh vì sự cai trị bất lực của Lý Trác.

Đỗ Tồn Thành lúc đó là Thứ Sử và nắm binh quyền tại châu Ái. Theo thư tịch Trung Quốc thì gia đình ông đã có quyền thế từ đời nhà Tề và nhà Lương (479-556) và những chính quyền Trung Quốc cai trị An Nam sau này cũng không thể làm suy giảm uy thế của dòng họ này vì họ đã lập nghiệp ở châu Ái, ngoài phạm vi kiểm soát trực tiếp của quan chức Trung Quốc. Khi Lý Trác gây chiến với những bộ lạc vùng núi và bắt đầu bị yếu thế thì Đỗ Tồn Thành liên minh với các tù trưởng vùng núi để chống Lý. Có thể Đỗ Tồn Thành làm như thế để duy trì địa vị của mình trong trường hợp việc cai trị của nhà Đường bị lung lay vì sự thất bại của Lý Trác, hoặc rất có thể ông thật sự theo đuổi phương án chống nhà Đường của riêng ông. Đường nào đi nữa ông cũng bị Lý Trác bắt và giết chết. Chính cái chết của Đỗ Tồn Thành đã đổ thêm dầu vào lửa đối với phong trào vùng lên chống lại nhà Đường. (47)

Chiến sự dữ dội nhất là ở châu Phong, nơi sông Hồng và các sông nhánh đổ vào đồng bằng. Châu Phong được phòng thủ bởi một tướng địa phương tên là Lý Do Độc với sự trợ giúp của bảy viên tù trưởng được biết dưới tên là "Man Động Thất Quán". Vào mùa đông, mùa thuận lợi cho chiến sự, họ còn có thêm một đạo quân sáu nghìn người của nhà Đường, gọi là quân phòng đông. Viên tri châu ở châu Phong dường như lại có thiện cảm với phe chống Đường nên ông yêu cầu đưa quân phòng đông ra khỏi châu Phong vì muốn chuyển trọng tâm của cuộc chiến vào sâu trong nội địa Đô Hộ Phủ để ngầm phá hoại quyền hành và gia tăng cơ hội đuổi được họ Lý ra khỏi Giao Châu. Vừa lúng túng với vấn đề tiếp tế và nhân lực, vừa không hiểu rõ những uẩn khúc chính trị ở Đô Hộ Phủ nên Lý Trác chấp thuận lời yêu cầu ấy.

Không còn quân phòng đông, uy thế của Lý Do Độc bắt đầu lung lay. Cùng lúc đó, vì An Nam ở ngay biên thùy phía Đông nước Nam Chiếu, nên vua Nam Chiếu đã cử một viên Thác Đông Tiết Độ tới gặp các tù trưởng đang kình chống Lý Do Độc và gửi một bức thư yêu cầu Lý Do Độc quy thuận. Là người dễ bị thuyết phục, nên Lý Do Độc y lời và viên Thác Đông Tiết Độ bèn gả con gái mình cho con trai trưởng của Lý Do Độc để kết thân. Vô hình trung Lý Do Độc và bảy tù trưởng Man Động Thất Quán trở thành chư hầu của Nam Chiếu. Những tù trưởng khác, mà tới lúc đó vẫn còn quy phục nhà Đường, đều trở cờ về với Nam Chiếu. Việc này cũng là khởi nguồn của cuộc chiến tranh với Nam Chiếu vào năm 854. (48)

Mãi đến năm 858 thì các đạo quân lớn của Nam Chiếu mới bắt đầu xuất hiện. Cùng lúc đó các tù trưởng địa phương liên tiếp mở các cuộc đột kích vào các làng xã ở ngay giữa Đô Hộ Phủ. Năm 857, tướng nhà Đường là Tống Nhai được gửi đến để đối phó với tình hình, nhưng đến An Nam chưa được 2 tháng thì ông lại bị triệu hồi về Bắc để đàn áp một cuộc nổi loạn ở Ung Châu. (49)

Sau khi Tống Nhai đi khỏi, quyền chỉ huy ở An Nam rơi vào tay một tướng địa phương là La Hành Cung với đạo quân bản bộ thiện chiến lên tới hai nghìn người. La Hành Cung cho thu thuế và làm ngơ như không biết Đô Hộ Lý Hoằng Phụ vì biết rằng ông này chỉ có thể tập trung được một đội quân hộ vệ vài trăm người, võ khí nghèo nàn. Khi người kế nhiệm Lý Hoằng Phụ là Vương Thức đem quân đến tăng cường vào đầu mùa xuân năm 858 thì La Hành Cung trốn biệt. (50)

Là một tướng giỏi của nhà Đường, việc đầu tiên của Vương Thức là hoàn tất việc xây dựng các công sự phòng thủ mà Điền Tảo đã bỏ dở năm 835. Tính chuyện lâu bền được nhiều chục năm, Vương Thức cho vây quanh La Thành bằng một hàng rào cọc gỗ nhọn chu vi 5 dặm. Bên ngoài hàng rào cọc nhọn ấy, ông cho đào một hào sâu và khơi cho nước chảy vào đấy. Phía ngoài hào sâu, ông lại cho trồng các bụi tre gai. Với vành đai phòng thủ ấy, địch quân không thể bất ngờ đột nhập vào La Thành một cách dễ dàng được. Sau đó, Vương Thức cho tuyển lựa và huấn luyện các sĩ quan và binh lính. (51)

Khi một lực lượng trinh sát lớn của Nam Chiếu xâm nhập Đô Hộ Phủ vào mùa hè năm 858, Vương Thức sai một thông dịch viên đến đọc cho họ nghe một bản tuyên bố trong đó vạch rõ cho quân Nam Chiếu thấy những điều lợi hại nếu họ rút lui ngay lập tức. Nghe xong bản tuyên bố quân Nam Chiếu rút đi ngay đêm hôm ấy sau khi đã xin lỗi và giải thích rằng họ đến Đô Hộ Phủ chỉ là để đuổi bắt một nhóm người Lão phản loạn chứ không có ý gây hấn gì cả. Không lâu sau đó, một cuộc tấn công của các tù trưởng vùng núi đã bị đánh bại (52). Chỉ trong vài tháng Vương Thức đã xoay chuyển được tình thế một cách rõ ràng.

Mặc dầu vai trò của nhà Đường ở An Nam đã được Vương Thức cải thiện, nhưng quyền lực của họ vẫn bị thách thức trên khắp nửa miền phía Nam của đế chế Trung Quốc. Riêng trong năm 858, những cuộc nổi loạn nghiêm trọng bùng nổ ở châu Quảng, Hồ Nam, Giang Tây và cả ở Ung Châu nữa (53). Tình hình rối ren ở Ung Châu đe doạ đến sự thông lưu đường bộ giữa An Nam và Trung Quốc, nên một đội quân đặc biệt được trú đóng ở đó để sẵn sàng đối phó và duy trì huyết lộ giao thông này. Đội quân này được gọi là "quân Hoàng đầu" vì binh sĩ đều quấn khăn vàng trên đầu.

Thư tịch Trung Quốc viết rằng "An Nam có những kẻ phản bội và thường hay nổi loạn". Một đêm đầu mùa thu năm 858, lo lắng vì tin đồn rằng quân Hoàng đầu sắp đột kích bất ngờ nên dân An Nam kéo đến vây quanh La Thành và yêu cầu Vương Thức về Bắc để họ tự tăng cường phòng thủ kinh thành chống quân Hoàng đầu. Lúc ấy đang ăn, Vương Thức không thèm để ý đến họ và cứ ngồi ung dung ăn uống cho trọn bữa rồi mới mặc áo giáp dẫn tả hữu lên mặt thành, dựng cờ đại tướng ngồi mà lớn tiếng trách mắng. Những người vây thành quay đầu bỏ chạy. Ngày hôm sau, Thức sai bắt giết hết. (54)

Theo sử liệu Trung Quốc, con của Đỗ Tồn Thành là Đỗ Thủ Trừng có can dự vào cuộc binh biến kể trên, có lẽ vì Thủ Trừng vẫn tính đến chuyện báo thù cho cha bị chết vì tay Lý Trác bốn năm trước đó. Không bắt được Đỗ Thủ Trừng nên Vương Thức tìm cách gây chia rẽ Thủ Trừng với các bộ hạ của ông (55) nhưng thủ đoạn ấy cũng chẳng gặt hái được hiệu quả lâu dài. Giai đoạn này cho thấy An Nam vẫn tiếp tục có những rối loạn về chính trị, ngay cả dưới sự cai trị tương đối thành công của một viên tướng tài ba như Vương Thức.

Trong 6 năm trời trước đó, kể từ khi Lý Trác bắt đầu cầm quyền, An Nam không nộp bất kỳ một khoản thuế nào cho triều đình và trong quân không có khao thưởng. Nhưng chỉ trong hai năm ở An Nam, Vương Thức đã tái lập được cả hai việc đó một cách thành công. Ngoài việc nhất thời dẹp yên được ý đồ nổi loạn trong Đô Hộ Phủ và cả của những kẻ có khả năng trở thành đồng minh với Nam Chiếu ở bên ngoài, tiếng tăm của Vương Thức còn khiến cho cả Chiêm Thành, Chân Lạp đều thông sứ trở lại. Vào đầu năm 860, Vương Thức lại bị triều đình gọi về để đi dẹp loạn ở một nơi khác. Nếu Vương Thức ở lại An Nam lâu hơn nữa có lẽ cuộc chiến tranh với Nam Chiếu đã không xảy ra. (56)

Nhờ Vương Thức mà Lý Hộ, người kế nhiệm ông, được thừa hưởng một tình hình khá ổn định. Nhưng chỉ trong vòng có một năm, những hành động thiếu suy xét của Lý Hộ đã làm hỏng tất cả những gì Vương Thức gặt hái được trước đó. Sai lầm thứ nhất của Lý Hộ là đem Đỗ Thủ Trừng ra xử chém. Cái chết của Đỗ Tồn Thành, phụ thân của Thủ Trừng bởi tay Lý Trác đã góp phần gây ra cuộc chiến tranh năm 854 vì các quan chức Trung Quốc luôn coi gia đình họ Đỗ như là một đe doạ đối với chính quyền. Giết Đỗ Thủ Trừng, Lý Hộ đã đổ thêm
dầu vào lửa khiến các gia đình thế lực ở An Nam ngày càng xa lánh ông.

Sai lầm thứ nhì của Lý Hộ là việc ông đưa quân ra ngoài Đô Hộ Phủ vì tham vọng quân sự. Một tháng trước khi Lý Hộ đến An Nam, Nam Chiếu đã đánh chiếm được châu Bá (thuộc Quý Châu ngày nay). Muốn được vang danh tên tuổi, Lý Hộ đem quân đi lấy lại châu Bá. Trong khi ông vắng mặt, gia đình họ Đỗ tập hợp được một đạo quân ba vạn người, kể cả một vài đội quân từ Nam Chiếu. Khi Lý Hộ chiến thắng châu Bá trở về thì mới vỡ lẽ rằng An Nam đã vuột khỏi tầm kiểm soát của mình. Tháng Chạp năm 860, La Thành thất thủ và Lý Hộ phải chạy trốn lên Ung Châu. (57)

Tháng Giêng năm 861, binh sĩ nhà Đường đồn trú ở Ung Châu và các địa hạt lân cận được lệnh kéo xuống tái chiếm An Nam. Đến giữa năm ấy thì Lý Hộ lấy lại được La Thành, nhưng quân Nam Chiếu lại vòng lên đánh tập hậu và chiếm được Ung Châu. Sau thất bại này Lý Hộ bị đổi ra tận đảo Hải Nam và Vương Khoan lên thay thế với chức Kinh lược sứ An Nam. (58)

Khác với Lý Hộ một người háo danh, thích tung hoành mà chẳng biết tính toán hơn thiệt, Vương Khoan đưa ra một chính sách hoà hoãn. Nhận thức được quyền uy của gia đình họ Đỗ, triều đình quyết định tìm kiếm sự hợp tác của họ; một sắc chỉ được gửi tới Vương Khoan, trong đó có truy tặng Đỗ Tồn Thành một tước hiệu kèm theo lời xin lỗi về cái chết của hai cha con ông cùng lời thừa nhận rằng Lý Hộ đã vượt quá quyền hạn của mình (59). Chính sách hoà giải này thật ra cũng chỉ là một kế hoãn binh vì nhà Đường biết rằng họ đang ở thế yếu mà thôi.

Rõ ràng gia đình họ Đỗ đã có vai trò rất quan trọng trong những năm ấy nhưng sử liệu nhắc đến gia đình này rất ít. Là một gia đình danh tiếng và có thế lực ở Việt Nam trong gần bốn thế kỷ, gia đình họ Đỗ là những người đầu tiên đã liên kết những người Việt chống nhà Đường với những dân tộc bộ lạc trong vùng núi. Sự kiện hai thế hệ liên tiếp của một gia đình có người bị nhà Đường xử chém chứng tỏ rằng các quan cai trị nhà Đường luôn coi dòng họ Đỗ là một mối đe doạ rất nghiêm trọng. Vì dòng họ Đỗ đã từng kiên cường chống lại Lý Trác, Vương Thức và Lý Hộ do đó nhà Đường hy vọng rằng, nếu xoa dịu được họ Đỗ, sẽ có thái bình. Nhưng tình hình đã biến chuyển vượt ra ngoài tầm kiểm soát của cả Việt Nam lẫn Trung Quốc vì hoà bình hay chiến tranh bây giờ là do Nam Chiếu quyết định.

Cho đến lúc đó, Nam Chiếu vẫn theo đuổi một chính sách thận trọng với việc tung ra những cuộc đột kích thăm dò trước rồi mới đến tính đến chuyện tác chiến phối hợp với các đồng minh ở bên trong An Nam. Đầu năm 862 thì chiến tranh đã bước sang một cục diện mới khi Nam Chiếu một mình tung ra một cuộc tấn công đại quy mô vào Giao Châu. Vương Khoan tới tấp gửi biểu tâu về triều xin viện binh, nhưng lại bị Sái Tập xuống thay thế với một đạo quân lính mới ba vạn người. Chỉ trong vài tháng, Sái Tập đã chận đứng được các cuộc tấn công của Nam Chiếu và tình hình chiến sự giảm xuống rõ rệt chỉ còn các vụ đột kích và tấn công lẻ tẻ vì cả hai bên đều biết rằng họ cần đánh giá lại tình hình và lực lượng. (60)

Sau cuộc chiến năm 862 quyền hành của nhà Đường ở Việt Nam được tái tổ chức với việc Sái Kinh được bổ nhiệm làm tân Tiết Độ Sứ và đóng bản doanh ở Ung Châu. Địa hạt của Sái Kinh gồm cả An Nam. Ghen tị với Sái Tập và sợ rằng thành công của Sái Tập sẽ làm lu mờ tiếng tăm của mình nên mùa hè năm 862, Sái Kinh tâu về triều rằng quân Nam Chiếu đã rút hết vào núi, mối đe doạ chiến tranh không còn nữa và xin lệnh rút Sái Tập cùng đạo quân của ông này về. Triều đình chuẩn y lời tâu xin của Sái Kinh và ra lệnh cho Sái Tập lui quân.

Sái Tập đáp lại bằng biểu tâu rằng không những quân địch chưa rút mà chiến sự vẫn còn tiếp diễn; còn quân của ông thì đang bị kiệt sức và thiếu lương thực. Sái Tập đệ trình một bản liệt kê mười điểm để chứng minh cho lời ông nói và tâu rằng rút quân bây giờ là một vấn đề sinh tử. Nhưng triều đình không đếm xỉa đến khẩn cầu của ông mà cứ y theo lời tâu của Sái Kinh. Thế là quân Đường bị rút về, và Sái Tập phải ở lại cầm cự với vỏn vẹn một đội vệ binh và những quân địa phương. (61)

Trong khi đó, Sái Kinh bị các thuộc hạ xa lánh dần vì thói tham nhũng của ông. Và vào mùa thu năm ấy, ông bị quân đồn trú sở tại đánh đuổi ra khỏi Ung Châu. Sau đó Sái Kinh bị trục xuất ra đảo Hải Nam, nhưng lại tìm về ngay dù không được phép. Sau cùng, Sái Kinh bị ép phải tự vẫn mà chết.

Vững lòng hơn vì đội quân của Sái Tập phải rút lui cũng như các vụ rắc rối giữa Sái Tập và Sái Kinh, nên Nam Chiếu lại mở cuộc tấn công vào cuối năm ấy với một đạo quân năm vạn người. Sái Tập xin quân cứu viện và năm nghìn người được vội vàng tập hợp ở Ung châu. Nhưng sợ rằng Nam Chiếu sẽ đánh tập hậu Ung Châu nếu lực lượng này tiến vào An Nam, nên Sái Tập được lệnh rút về Hải Môn. Nhưng đến lúc đó thì Sái Tập đã bị vây hãm ở La Thành vì quân tiếp ứng khoảng một nghìn người đã không đến kịp. (62)

Tháng Giêng năm 863, La Thành thất thủ sau 24 ngày bị quân Nam Chiếu vây hãm. Sái Tập bị trúng một mũi tên ở bả vai trái và chạy thoát được tới sông Hồng nhưng chiếc thuyền chở ông ra tới giữa dòng thì bị sóng đánh lật úp và ông bị chết đuối. Khi hậu quân bốn trăm người chạy đến được bờ sông thì không còn chiếc thuyền nào nữa để đào thoát nên viên tướng chỉ huy lúc đó bèn kêu gọi binh sĩ phải liều chết chống cự mở đường máu mà sống. Thế là tất cả lại quay về phía Đông La Thành, liều chết xông vào; giết được khoảng hai nghìn quân Nam Chiếu trước khi bị giết sạch. Sách chép rằng tổng số lên tới mười lăm vạn binh lính nhà Đường đã bị bắt hay bị giết bởi quân Nam Chiếu trong những năm 862 và 863. Tất nhiên là rất nhiều người trong số này được tuyển mộ ngay tại An Nam. Phải mất hai năm rưỡi trời sau đó, quân nhà Đường mới phục hồi để có thể đánh Nam Chiếu trở lại. Chính trong thời gian này, các đạo quân vùng núi đã ngang nhiên tràn xuống khắp Đô Hộ Phủ và thẳng tay vơ vét. (63)

Nam Chiếu để lại một đạo quân lên đến hai vạn người trú đóng ở An Nam dưới quyền điều khiển của tướng Dương Tư Tấn ở La Thành. Lúc đầu những người Việt chống nhà Đường có lẽ đã chấp nhận sự can thiệp của Nam Chiếu nhưng sau đó họ đã bị lấn lướt vì quân Nam Chiếu từ trong núi kéo ra quá đông. Dân chúng tản mác khắp nơi vì nhà cửa của họ bị cướp phá hay chiếm ngụ. Thư tịch viết:

"Nhiều người tị nạn phải chạy vào trong các hang động và hẻm núi để sống, còn số các quan chức dân và quân sự thi nhau chạy sang Hải Môn tị nạn cũng không ít. Một số chỉ huy quân sự ở lại các hang động và các hẻm núi và vẫn được dân chúng An Nam tín nhiệm ngay cả trong khi bọn man di đi cướp bóc. Họ chỉ huy việc phòng thủ tại các thành trì và vẫn được coi như những anh hùng. Mạnh ai nấy lo phòng thủ các vùng đất biên thùy nhưng nói chung là tất cả đều rất hoang mang…" (64)

Đoạn trích dẫn trên với những chỗ nhấn mạnh đến số dân chúng sống trong "các hang động và hẻm núi" cho thấy tác động mạnh mẽ của chiến tranh đối với xã hội Việt Nam. Những nhà lãnh đạo địa phương xung phong đứng ra bảo vệ dân chúng chống lại cướp bóc. Đoạn trích dẫn ngụ ý rằng nhiều làng mạc bị bỏ hoang và dân chúng tản mác tứ tán.

Đây là những giây phút thương đau trong lịch sử Việt Nam. Những nhà lãnh đạo địa phương chống Đường thì bị những đồng minh đầu môi chót lưỡi phản bội; và ngược lại phe thân Đường thì bị những chủ nhân mình bỏ rơi. Những đau khổ ấy không chỉ đối với Việt Nam mà cả Trung Quốc vì hàng nghìn binh sĩ nhà Đường đã phải bỏ mình ở Việt Nam khiến cho thi sĩ Bì Nhật Hưu, bất chấp sự an toàn đối với địa vị quan lớn của mình, đã công khai chỉ trích chính sách sai lầm của nhà Đường ở đó. (65)

Nam Chiếu tiếp tục chinh phục An Nam bằng những vụ đột kích lớn vào Ung Châu. Mùa hè năm 863, một vạn binh sĩ Trung Quốc được đưa tới Hải Môn, nơi mà Tiết Độ Sứ Khang Thừa Huấn phụ trách vấn đề Nam Chiếu. Một chính quyền Đô Hộ Phủ lưu vong dưới quyền của Tống Nhung được lập tại Hải Môn và một vạn tân quân tuyển mộ ở Sơn Đông được đặt dưới quyền ông.

Với số binh sĩ từ khắp nơi trong nước tập trung về Hải Môn, việc tiếp tế trở nên gay go. Một hệ thống tiếp tế bằng đường biển được thành lập ngay với một đoàn thuyền gồm một nghìn chiếc được huy động để chở gạo từ Phúc Kiến, một hải trình mất gần một tháng. Mặc dầu có nhiều lạm dụng chẳng hạn như các quan chức thường xung công những tàu buôn và vứt bỏ hàng hoá của họ, hoặc ép các chủ tàu phải nhận ít tiền bồi thường trong trường hợp tàu bị đắm, quân sĩ nhà Đường vẫn được tiếp tế đầy đủ lương thực. (66)

Đầu năm 864, Kinh Lược Sứ Trương Nhân được lệnh xuống thay thế Tống Nhung tại Hải Môn và chỉ huy hai vạn rưởi binh sĩ để lấy lại An Nam. Tuy nhiên, vì Khang Thừa Huấn đang bận đánh nhau lớn với Nam Chiếu ở Ung Châu trong suốt nửa năm đầu, do đó Trương Nhân không dám tiến quân. Rốt cuộc Cao Biền lại được tiến cử làm Đô hộ Tổng quản Kinh lược Chiêu thảo sứ xuống thay thế Trương Nhân vào đầu mùa thu năm đó. (67)

Nổi tiếng trong các trận đánh quân Đột Quyết ở miền Bắc, Cao Biền là một tướng tài và rất kiêu hãnh. Ông cho rằng chuẩn bị kỹ lưỡng là chìa khoá của thành công trong bất cứ trường hợp nào. Sau khi đến Hải Môn, Cao Biền để hết tháng này đến tháng khác vào việc huấn luyện binh sĩ và thu thập tin tức. Vì ghen ghét nên Tiết Độ Sứ Lý Duy Châu ở Hải Môn đã nhiều lần trách Cao Biền là hành động quá chậm chạp. Vì hai bên không hoà thuận với nhau nên cuối cùng khi Cao Biền lên đường xuống Đô Hộ Phủ vào mùa hè 865 thì Duy Châu ở lại, chỉ huy quân đội dự bị.

Cao Biền theo đường biển đến Đô Hộ Phủ với chỉ có năm nghìn lính. Cuộc hành quân được chuẩn bị rất kỹ lưỡng khiến năm vạn quân Nam Chiếu bị bất ngờ phải chạy tán loạn vì lúc đó quân Nam Chiếu đang phân tán khắp nơi để thu gom lúa gạo ở các làng xã. Trong trận này Cao Biền thu lấy số lúa đã gặt để nuôi quân. (68)

Khi tin Cao Biền chiến thắng về đến Hải Môn, Duy Châu tìm cách ếm nhẹm, không thông báo về triều. Nhiều tháng trôi qua và khi triều đình gặng
hỏi thì Duy Châu báo cáo rằng Cao Biền chần chờ ngồi nhìn giặc mà không chịu tiến. Tin lời, triều đình lập tức sai Vương Án Quyền xuống thay Cao Biền.

Trong khi ấy, Cao Biền lại được tướng Vi Trọng Tể đem bảy nghìn quân đến tăng cường bằng đường bộ. Mùa xuân năm 866, Cao Biền lại đánh bại một đạo quân Nam Chiếu nữa và đuổi chúng vào tận vùng núi. Sau đó, ông quay lại diệt nốt các tàn quân của địch còn bị lạc lõng ở đồng bằng. Mùa thu năm ấy, ông chuẩn bị bao vây La Thành, nơi mà những tàn quân Nam Chiếu cuối cùng còn đang chiếm giữ. (69)

Cũng vào lúc đó, biết được âm mưu hại ông của Duy Châu và việc bổ nhiệm Án Quyền nên Cao Biền vội sai tướng tùy tùng là Tăng Cổn đi thẳng về kinh tâu trình sự thật ở mặt trận. Tháp tùng Tăng Cổn có Vương Huệ Tán, một tướng trong quân của Vi Trọng Tể. Hai người đi thuyền đến vịnh Hạ Long thì phải nấp ở một trong những hòn đảo để tránh một đội thuyền chở Duy Châu và Án Quyền trên đường xuống Đô Hộ Phủ đi qua rồi mới về gấp kinh sư. Bao vây La Thành đuợc mười ngày thì Cao Biền được tin Duy Châu và Án Quyền sắp đến nên ông giao quyền lại cho Vi Trọng Tể và đem một trăm quân vội vã theo đường bộ lên Hải Môn.

Khi Duy Châu và Án Quyền tới được An Nam thì tất cả mọi hoạt động quân sự đều ngưng. Vì Án Quyền không khéo xoay xở nên để Duy Châu quyết định mọi việc nhưng Duy Châu lại nóng nảy nên các sĩ quan của Cao Biền đều lẩn tránh, không hợp tác. Họ bất tuân lệnh vị tân chỉ huy và nới lỏng vòng vây La Thành khiến quá nửa số binh sĩ bị vây của Nam Chiếu chạy thoát được về núi.

Sau khi về tới được kinh đô và tâu trình sự thật về mọi vụ việc, Tăng Cổn và Huệ Tán vội quay trở về Hải Môn với tờ chiếu phục hồi chức vụ cho Cao Biền. Cao Biền lập tức quay trở lại Đô Hộ Phủ, tổ chức lại cuộc bao vây La Thành và giết hết ba vạn binh sĩ địch còn ở trong thành (70).

Điểm khác biệt rõ nét giữa những năm đầy oán thù đưa đến cuộc chiến tranh với Nam Chiếu và kỷ nguyên thái bình sau đó cho thấy trận chiến này đã chứng kiến những thay đổi quan trọng trong đời sống chính trị ở Việt Nam. Từ đó các thành phần chống Đường và mưu cầu sự tiếp tay của Nam Chiếu đã không còn được nghe nói đến nữa.

Chúng ta có thể suy luận rằng những nhà lãnh đạo địa phương ấy, hoặc đã bị diệt hết hoặc đã phải chạy trốn vĩnh viễn vào trong núi khi cuộc chiến kết thúc. Sự đối đầu Đường Việt mà kết cuộc là cuộc chiến tranh Nam Chiếu cho thấy hai luồng văn hoá đối nghịch ở Việt Nam vào thế kỷ IX. Luồng văn hoá Đường-Việt ở Giao Châu nặng phần Phật Giáo và tùy thuộc vào nhà Đường để duy trì trật tự, và một luồng văn hoá chống Đường tại các khu vực có văn hoá Mường-Việt. Con số ba vạn người bị Cao Biền chém đầu khi ông lấy lại được La Thành chắc chắn bao gồm các phần tử quan trọng trong số các lãnh tụ địa phương chống Đường. Tuy nhiên, quá nửa số bị vây đã trốn thoát được về núi trong lúc Cao Biền tạm thời vắng mặt. Sự rút lui của họ vào núi lúc đó có thể đã có ảnh hưởng quyết định đến việc người Mường tách ra khỏi người Kinh, mà các bằng chứng về ngôn ngữ cho thấy là đã xảy ra vào lúc chấm dứt ách đô hộ của nhà Đường tại Việt Nam. (71)

Thế kỷ IX rõ ràng đã là một kỷ nguyên để lại nhiều dấu ấn đậm nét trong lịch sử Việt Nam. Khó mà nói được rằng thời kỳ này chỉ đơn giản phản ánh những sự kiện tương đối có ý nghĩa trong thời gian đó, hoặc chỉ tượng trưng cho những kinh nghiệm sâu xa mang tính cách quốc gia. Thế kỷ IX là thời gian mà quyền lực Trung Quốc bị suy giảm đến tột cùng, nhiên hậu người Việt Nam đã mạnh dạn hơn đứng lên thách thức thế lực vương triều một cách vừa tích cực vừa tiêu cực.

Người Việt Nam quan tâm phần nào đến cách cai trị sáng suốt của Triệu Xương, Trương Chu và Mã Tổng nên đã tích cực hợp tác với các quan cai trị ấy. Tuy nhiên, lề thói cai trị quá áp bức và không hợp lý của Bùi Hành Lập cũng như Lý Tượng Cổ đã gây bạo động và bất ổn kéo dài. Những năm rối loạn tiếp theo sự nổi dậy của Dương Thanh để tiến tới đỉnh cao là chiến tranh với Nam Chiếu thì đầy ắp những căng thẳng giữa các nhóm chống Đường và thân Đường. Các viên Đô Hộ, hoặc bị giết hoặc bị đuổi ra khỏi Đô Hộ Phủ trong những năm 803, 819, 828, 843, 860 và 863. Chỉ có cách cai trị của Mã Thực đã đem lại những hoà hoãn hết sức cần thiết trong những năm 830.

Vì các cố gắng thu thuế của nhà Đường đều bị người Việt Nam coi như là một sự khiêu khích, nên khi Hàn Ước thành công trong việc thu thuế để bù lấp được chỗ thiếu hụt trong kho lẫm của chính quyền, thì năm 828 ông bị đánh đuổi chạy mất. Sắc chỉ của nhà Đường năm 836 ra lệnh miễn thuế mùa thu cho dân An Nam năm ấy và phải lấy tiền trong ngân quỹ của Bắc triều để bù lại viện lý do rằng các đồn binh có thể bị tràn ngập bởi những người dân địa phương bất mãn vì sưu cao thuế nặng.

Sau 6 năm không thu được một chút thuế nào thì năm 858 Vương Thức cuối cùng đã tìm cách thu được thuế ở An Nam nhưng đến năm 863 Đường triều lại ra chỉ thị miễn thu "lưỡng thuế pháp" và mọi nghĩa vụ khác trong hai năm (72). Tất nhiên điều này chỉ được ban hành khi Nam Chiếu đã kiểm soát được An Nam. Sau chiến tranh Nam Chiếu nhà Đường phải gửi thóc lúa và các đồ tiếp tế xuống miền Nam để thỏa mãn nhu cầu hậu chiến. Không chắc là từ đó trở đi, Đường triều có thu thêm được thuế nào nữa không ở An Nam.

Khi chiến tranh chấm dứt, nhà Đường lại tìm mọi cách tái lập quyền thống trị Việt Nam nhưng họ đã lún quá sâu vào con đường suy sụp. Thời kỳ tái thiết hậu chiến là giai đoạn chuyển đổi thể chế đầu tiên trong số các thời kỳ quá độ để tiến đến việc tạo lập một nước Việt Nam quân chủ độc lập.

Nếu nhà Đường không thắng trong trận chiến tranh Nam Chiếu thì khó mà nói được xã hội Việt Nam sẽ đi về đâu. Thực tế cho thấy kết cuộc của chiến tranh Nam Chiếu đã khẳng định mối ràng buộc lâu đời giữa Việt Nam và văn hoá Trung Quốc. Đây chính là điều mà nhiều người Việt Nam cũng như nhà Đường đã quả quyết khi cho rằng Cao Biền là người đã giải phóng họ ra khỏi kỷ nguyên cướp bóc của Nam Chiếu.

Tuy nhiên vì quá yếu để tiếp tục thống trị Việt Nam, cuối cùng nhà Đường đành phải giao lại cho Việt Nam quyền tự quyết, cái mà lúc còn ở thế thượng phong và đầy tự mãn bắc triều đã khư khư giữ lấy. Người Việt Nam giờ đây vừa nấp dưới bóng của vương triều mà không phải bị đau khổ dưới ách thống trị trực tiếp của họ. Các nhà lãnh đạo Việt Nam thời hậu chiến luôn tìm cách duy trì mối quan hệ hữu nghị chính thức với Trung Quốc ngay cả sau khi nhà Đường đã sụp đổ. Đó là những dẫn chứng cho thấy rằng một nền văn hoá sẽ lôi cuốn và hấp dẫn như thế nào nếu không đi kèm với những áp lực chính trị.

Keith Weller Taylor
Chuyển ngữ: Lê Hồng Chương & Chiêu Ly (damau.org)


Ghi chú

(46) Xem An Nam Chí Lược (ANCL) về Điền Tại Hựu và Thôi Cảnh. Theo biểu đồ trong Man Thư (MT) trang 336, Bùi Nguyên Hữu rời An Nam năm 848; Điền Tại Hựu được nói đến trong những năm 849-50 và Thôi Cảnh năm 851-52; Lý Trác năm 853-55.

(47) Thông tin rằng Đỗ Tồn Thành là Thứ sử Ái châu, đồng thời nắm binh quyền ở đó, và Lý Trác đã giết ông vì việc ông đã liên minh với người Lão, trích từ “Thực lục”, trong một ghi chú của Tư Trị Thông Giám (TTTG), 250, quyển 13, 587. Những sách khác chỉ ghi vắn tắt rằng Đỗ Tồn Thành là một “đầu lĩnh man di”. Về lịch sử gia đình họ Đỗ, xem TTTG, 249, quyển 13, 559.

(48) Lý Trác là một nhân vật mờ nhạt; Tư mã Quang cũng đã có nhận xét rằng khó xác định Lý Trác với những người cũng tên xuất hiện trong các nguồn khác (TTTG, 249, quyển 13, 558). Sự cai trị tàn bạo của hắn không được để ý đến nhiều cho mãi đến sau này, khi tình hình đã biến chuyển thành một cuộc khủng hoảng lớn và các sử gia bắt đầu đi tìm nguyên nhân. Như vậy, những sự kiện của năm 854 đã được đưa vào năm 863 trong CĐT, 19a, 4a, và đưa vào năm 858 trong TTTG, 249, quyển 13, 558 và ĐVSKTT, 5, 8b-9a; trong những nguồn này thông tin được đưa ra như là cách giải thích nguyên nhân của tình hình tồi tệ trong những năm sau đó. TĐT, 22b, 1a, đã liệt những sự kiện này vào thời Đại Trung (847-859), trong khi MT miêu tả chi tiết hơn (4, 87-88, và 107-108), cho ta biết Lý Trác giải tán “quân phòng đông” vào năm 854, cũng là lúc cuộc chiến tranh bắt đầu trên diện rộng. ANCL (101, 110-111) cũng tóm tắt các sự kiện.

(49) CĐT, 18c, 15a; TTTG, 249, quyển 13, 551, 552; ĐVSKTT, 5, 8a-b. Tất cả những

nguồn này đều chép Tống Nhai được điều về Đô hộ phủ tháng 4 trong năm. Tháng 5 quân đội ở Ung châu làm loạn và đánh đuổi Kinh Lược Sứ ở đó (TĐT, 8, 13a). Tống Nhai lại bị đưa về Ung châu dẹp loạn vào tháng 6 (CĐT, 18c, 15b).

(50) Vương Thức thay thế Lý Hoằng Phủ tháng 3-858 (CĐT, 18c, 18a-b). Thông tin về La Hành Cung có trong: TTTG, 249, quyển 13, 556; ĐVSKTT, 5, 8b; và ANCL, 101.

(51) Hàng rào cọc nhọn có chu vi 12 lý (khoảng sáu km) và làm bằng gỗ thu được từ các chợ ở An Nam, theo “Tiểu sử Vương Thức” (TĐT, 167, 9b). Theo TTTG, 249, quyển 13, 555, hàng rào này được làm bằng gỗ táo ta, một cây ăn quả có thể mọc cao tới 4,5 m.

(52) Về những sự kiện này, xem: Tiểu sử Vương Thức (Tân Đường Thư, 167, 9a-b); TTTG, 249, quyển 13, 555-56; Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT), 5, 8b-9a; ANCL, 101. Cuộc tấn công của các tù trưởng vùng núi được ghi rõ là vào tháng 6 trong năm, theo: Cựu Đường Thư (CĐT), 18c, 19b; Tân Đường Thư (TĐT), 8, 13b; TTTG, 249, quyển 13, 558.

(53) TĐT, 8, 13a-b.

(54) TĐT, 167, 9b; TTTG, 249, quyển 13, 559;

(55) Xem TTTG, 249, quyển 13, 559 về quan hệ của Đỗ Thủ Trừng với cuộc nổi loạn; TTTG chép rằng Vương Thức đã thành công trong việc chia rẽ Thủ Trừng với họ tộc và môn hạ, khiến ông phải chạy trốn và dẫn tới cái chết, nhưng Tư mã Quang, trong một ghi chú về sau (quyển 13, 588), lại cho đó là một sự nhầm lẫn, nhờ có nhiều bằng chứng chắc chắn hơn rằng về sau Lý Hộ đã giết Thủ Trừng.

(56) CĐT, 9, 1a và 167, 9b; TTTG, 249, quyển 13, 559 và 250, quyển 13, 572; ĐVSKTT, 5, 9b-10b.

(57) Bá châu
rơi vào tay quân Nam Chiếu tháng 12 năm 859, theo CĐT, 9, 1a, và TTTG, 249, quyển 13, 569. Lý Hộ chiếm lại Bá châu vào tháng 10 năm 860 và bị buộc phải chạy trốn khỏi An Nam vào tháng 12, theo CĐT, 9, 1b và TTTG, 250, quyển 13, 580-581. Những sự kiện này cũng được chép trong TĐT, 222b, 1b; ANCL,101; Viêt Sử Lược (VSL), 1, 11a; và ĐVSKTT, 5, 9b-10a. Về vai trò của gia đình họ Đỗ và sự liên minh với Nam Chiếu, xem TTTG, 250, quyển 13, 581, 587, và ĐVSKTT, 5, 10a

(58) TTTG, 250, quyển 13, 586, 588; ĐVSKTT, 5, 10a; VSL, 1, 11a. CĐT, 9, 1b chép Vương Khoan được bổ nhiệm vào tháng 6 trong năm. Về việc Lý Hộ bị đi đầy, xem TTTG, 250, quyển 13, 587, và VSL, 1, 11a.

(59) TTTG, 250, quyển 13, 587.

(60) CĐT,19a, 2b, 3b; TĐT, 9, 1b; TTTG, 250, quyển 13, 590-591; ĐVSKTT, 5, 10b; VSL, 1, 11b; ANCL, 101. TTTG, và ĐVSKTT chép theo sách này, có thông tin đầy đủ nhất.

(61) TTTG, 250, quyển 13, 592; ĐVSKTT, 5, 10b-11a; VSL, 1, 11b.

(62) Về việc Sái Kinh và cuộc tấn công của Nam Chiếu, xem: TĐT, 9, 1b-2a; TTTG, 250, quyển 13, 594-595; ĐVSKTT, 5, 11a.

(63) TĐT, 9, 2a; TTTG, 250, quyển 13, 597-598; ĐVSKTT, 5, 11a-12a; VSL, 1, 11b; ANCL, 101-102; MT, 101.

(64) CĐT, 19a, 4a.

(65) Xem phụ lục N.

(66) TTTG, 250, quyển 13, 598-600; ĐVSKTT, 5, 12a-b; ANCL, 102; VSL, 1, 12a.

(67) TTTG, 250, quyển 13, 603, 604, 605; ĐVSKTT, 5, 12b; TĐT, 9, 2a, và 224c, 3b; VSL, 1, 12a. CĐT, 19a, 4b lẫn lộn chiến dịch của Khang Thừa huấn ở Ung châu với của Cao Biền ở An Nam sau này.

(68) TTTG, 250, quyển 13, 608; ĐVSKTT, 5, 13a-b; ANCL, 102. CĐT, 19a, 6b chép rằng đó là chiến thắng đối với quân Lâm Ấp. Tương tự như vậy, CĐT cho rằng cuộc xâm lấn An Nam vào tháng 9-861 (19a, 2b) cũng do Lâm Ấp và sự suy sụp của Đô hộ phủ vào năm 863 do “người Lão đã xúi giục Man Lâm Ấp đánh phá An Nam” (19a, 4a). Những nhầm lẫn này có phần là do cái tên Lâm Ấp không thích hợp trong bối cảnh thế kỷ IX (Chú thích của người hiệu đính: Lâm Ấp Quốc (chữ Hán: 林邑國) có thể coi là một vương quốc đã tồn tại từ khoảng năm 192 đến khoảng năm 605, tại vùng đất từ Quảng Bình đến Quảng Nam – theo Wikipedia). Người ta có thể giả định rằng người Chàm cũng không bỏ qua cơ hội mở rộng vùng ảnh hưởng của mình lên phía Bắc; họ cũng rành rẽ những sự việc xảy ra ở An Nam, như đã thể hiện qua việc cử sứ giả tới gặp Vương Thức. Nam Chiếu đã chiếm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng; còn đối với châu Hoan và châu Ái, tuy không có thông tin, nhưng rất có thể người Chàm cũng đã lấn chiếm.

(69) TTTG, 250, quyển 13, 610-611; ĐVSKTT, 5, 13b-14a.

(70) TĐT, 224c, 3b; VSL, 1, 12a-b; TTTG, 250, quyển 13, 611-612; ĐVSKTT, 5, 14a-b; ANCL, 102.

(71) Nguyễn Linh và Hoàng Xuân Chinh, “Đất nước và con người thời Hùng Vương” trang 103-104.

(72) CĐT, 19 (Katakura Minoru, “Chugokū Shihaika no Betonamu”, trang 35).


Xem online : Kỳ trước