Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Văn chương > Thi ca > THƠ NGUYỄN TRỌNG TẠO VÀ NHỮNG NÉT CÁCH TÂN

THƠ NGUYỄN TRỌNG TẠO VÀ NHỮNG NÉT CÁCH TÂN

Thứ Tư 16, Tháng Mười Một 2011, bởi Cong_Chi_Nguyen

Có thể nói yếu tố sáng tạo, đổi mới là một trong những yếu tố quyết định sự vong tồn của nghệ thuật. Những nỗ lực cách tân, đổi mới của các nhà văn, nhà thơ là điều đáng trân trọng, đáng được ghi nhận. Đó là ý hướng, khát khao của của những người thực sự muốn đưa văn chương Việt Nam bứt phá khỏi những vòng quay cũ kỹ, gia nhập vào nhịp sống văn chương hiện đại của thế giới. Trong nỗ lực cách tân, đổi mới thơ Việt sau 1975, chúng ta đã chứng kiến một sự thay đổi hết sức đa dạng, phong phú từ phong cách đến giọng điệu.

Nguyễn Trọng Tạo là một trong những nhà thơ đang nỗ lực với sự cách tân ấy. Trong quá trình hướng tới sự đổi mới, nhà thơ luôn luôn tâm niệm: “Tôi kính nể các nhà thơ cổ điển. Nhưng lớp nhà thơ sau không nên hướng tới họ, mà nên hướng tới chính mình. Có như vậy mới có thể hy vọng mình sẽ trở thành nhà cổ điển trong tương lai”. Với cách nghĩ ấy, ông đã mang đến những vần thơ vừa truyền thống vừa hiện đại. Không giống các nhà thơ khác như: Dương Tường, Lê Đạt, Hoàng Hưng… – họ làm mới thơ mình bằng những chuỗi hình ảnh tân kỳ, bằng những thủ pháp đồng hiện, cắt dán, biểu tượng xa lạ tiếp nhận từ phương Tây, Nguyễn Trọng Tạo lại chọn cho mình một hướng cách tân khác: cách tân trên chính cái nền truyền thống, cách tân nhưng vẫn lưu giữ cái chất “chân quê”. Có thể cảm thấu những vần thơ song hành truyền thống – hiện đại ấy qua những khía cạnh:

Đổi mới về cái nhìn, cảm xúc

Nhà thơ trẻ Mai Linh đã nhận xét về thơ Nguyễn Trọng Tạo: “Thơ anh rất hay, một thứ thơ sáng tạo, rất đúng với tư duy của thế hệ chúng tôi. Để thấy thơ anh sống được nhiều thời. Một thứ thơ truyền thống”. Thật vậy, chúng ta dễ thấy được thơ ông vẫn là nơi nương mình của những đề tài quen thuộc, của những vấn đề đã bao lần khắc chạm vào tâm trí của người tiếp nhận: là thiên nhiên, là yêu, là buồn, là trống vắng, hoang hoải… Song, sự cảm thụ của người đọc sẽ không trải mình trên một lối mòn nhàm chán bởi thơ ông vẫn mang đến những cái nhìn, những xúc cảm mới mẻ. Đó là sự chuyển tải tinh tế những suy nghĩ, tâm tính, cách nhìn nhận của người hiện đại trước những vấn đề tựa như đã cũ. Khi viết về thời gian, vần thơ ông xuất phát từ chính cái nhìn vào sâu thẳm bên trong, từ sự lắng nghe những âm vọng của đời sống qua những nhịp gõ thổn thức rất riêng nơi cái tôi nhà thơ:
Bóc đi làn sương mỏng
Núi khoả thân mơ màng
Bóc đi ngày tháng cũ
Thấy mùa về hân hoan

(Bóc đi nỗi nhớ mùa)
Bóc nỗi buồn tơ vương
Vui mới rồi cũng cũ
Bóc đi nghìn nhung nhớ
Nhung nhớ lại theo về…
còn chi bóc nữa?
hãy bóc hồn tôi
tôi thành tờ lịch
bóc sang luân hồi

(Thời gian)

Tứ của bài thơ thật lạ. Đó không còn là cái tình vội vàng, gấp gáp, cái khát khao mạnh mẽ trước bước chuyển của thời gian trong thơ Xuân Diệu, không là những màu sắc biểu trưng, hỗn độn, phức tạp của thời gian trong thơ Đoàn Phú Tứ mà là ước vọng hoà vào thời gian của một cái tôi. Thời gian vẫn cứ lưu chảy, vẫn dồn hết sức mạnh của mình để “bóc” đi những ngày cũ, những nét đẹp xưa, những nỗi niềm quá vãng. “Tôi” vẫn cứ thản nhiên, vẫn cứ hân hoan, thách thức “còn chi bóc nữa, hãy bóc hồn tôi. Tôi thành tờ lịch, bóc sang luân hồi” , “tôi” dấn mình, chủ động hoá thân vào chính thời gian để cảm nhận tất thảy, để làm mới chính mình, hồn mình…

Khi những vần thơ Nguyễn Trọng Tạo hướng đến tình yêu, nó lại mang đến cho người đọc những thanh âm đặc biệt:
Em cỏ khát. Ta mưa rào đầu hạ
cỏ uống mưa run rẩy
cỏ đang thì
mưa rào đến rồi đi
cỏ xanh niềm ngơ ngác
ta biệt em
lớ ngớ chẳng hẹn gì.

(Cỏ và mưa)

Không là sự mãnh liệt, là khát cháy, cũng chẳng phải là tiếng lời giản đơn, mộc mạc mà đó là một câu chuyện tình yêu được diễn đạt bằng một giọng điệu ngu ngơ, bằng một khoảnh khắc của ba mươi tư con chữ. Tình yêu luôn là địa vực khuấy động trí nghĩ, xúc cảm của muôn thuở con người, là vỉa tầng cảm hứng kêu gọi ngòi viết khai mở của biết bao nhà văn, nhà thơ. Những gì người nghệ sĩ viết ra có để lại được ấn tượng đối với người thưởng thức hay không, điều đó phụ thuộc vào sự sáng tạo, nét riêng độc đáo trong cách cảm, cách nhìn của người viết. Nguyễn Trọng Tạo đã làm mới thứ tình cảm muôn thuở ấy. Cái giọng ngu ngơ, hờ hững của ông lại tái hiện được những cung bậc cảm xúc đối lập, xung khắc trong tình yêu. Có lúc tình yêu trong thơ của “Người Ham Chơi” (cách gọi của Hoàng Phủ Ngọc Tường) là những phép chia đến tận cùng, chia đến đáy của xúc cảm, của đam mê:
Chia cho em một đời tôi
Một cay đắng, một niềm vui, một buồn
Còn tôi cái xác không hồn
Cái chai không rượu tôi còn vỏ chai.
Chia cho em một đời say
Một cây si với một cây bồ đề
Tôi còn đâu nữa đam mê
Trời chang chang nắng tôi về héo khô.
Chia cho em một đời thơ
Một lênh đênh, một dại khờ, một tôi
Chỉ còn cỏ mọc bên trời
Một bông hoa nhỏ lặng rơi mưa dầm.

(Chia)

Ngay cả khi viết về sự cô đơn, Nguyễn Trọng Tạo cũng phải làm cho sự cô đơn ấy thật khác, thật ám ảnh so với bản chất vốn có của sự cô đơn:
Anh cây chổi tựa mòn góc bếp
Anh cái chảo mốc meo
Anh con mèo đói kêu khan
Anh con chồn hoang ngủ vùi trong hốc tối…

(Ngày không em)

Bốn câu thơ chỉ có “anh”, bốn lần anh xuất hiện như những vật vô tri, vô giác, như con thú lang thang cô độc. Nỗi nhung nhớ, sự cô đơn trở nên bất ngờ, thú vị hơn khi thẩm thấu qua ngòi bút của Nguyễn Trọng Tạo. Những sự lặp lại đầy ẩn ý ấy đã làm hiện lên bóng dáng một Nguyễn Trọng Tạo điềm đạm, đằm thắm, không nói nhớ, không nói thương mà tình cứ trải ra mênh mông sâu thẳm. Ở phía không em, anh ngồi đếm thời gian, đếm thiên nhiên, đếm muôn mặt cuộc đời, vì… anh nhớ em, anh mong được đến ngày bên em:
Chỉ có vậy mà trời ơi, anh đếm
Đếm hoàng hôn rồi anh đếm bình minh
Anh đếm gió đếm mây anh đếm cây đếm lá
Đếm cả tuần chưa tới nụ hôn em

(Tập đếm)

Nói thơ Nguyễn Trọng Tạo cách tân trên nền truyền thống không có nghĩa mọi hình tượng, điểm nhìn đều thiên vị với cái rõ ràng, cái chân thật, cái chất quê của truyền thống, mà thơ ông còn dung chứa những phần mở ảo tâm linh, còn sử dụng cả màu sắc tượng trưng, siêu thực. Thơ ông khai mở con đường đi vào vùng mờ tâm linh nhưng ngòi bút của ông không bị vô thức xoay vần mà đó là điểm tựa để khơi sâu, để mở rộng không gian thơ, để cảm thấu một cách trọn vẹn hơn cuộc đời, cõi người:
Mưa trắng đường mưa nắng ngất ngư
Ai đem dải lụa tận xa mờ
Có khi người chết nghìn năm trước
Hồn vẫn bồng bềnh những giấc mơ…

(Có khi)

Có thể thấy những vần thơ của Nguyễn Trọng Tạo vẫn không hề xa lạ khi bút thơ ông đã ít nhiều ghé đến địa vực siêu thực bởi: “nếu có đọc thơ Tây cũng là một cách mở rộng, tham bác cho cái chất nhà quê vừa gắn với cổ điển, vừa đáp ứng được nhu cầu hiện đại” (Nguyễn Đăng Điệp). Nhà thơ đã đáp ứng được “nhu cầu hiện đại” của người thưởng thức bởi trong quá trình sáng tạo, ông đã cảm bằng tâm hồn, đã nhìn bằng đôi mắt của những con người đương thời. Ông đã xuyết điểm những nét mới, nét lạ góp phần làm cho nền thơ nổi bật hơn, thu hút hơn.

Đổi mới về phương diện nghệ thuật

Nỗ lực cách tân của Nguyễn Trọng Tạo không chỉ dừng lại ở cách cảm, cách nhìn mà còn được thể hiện trong phong cách ngôn ngữ, trong hình thức nghệ thuật. Thậm chí sự cách tân về mặt hình thức có lúc nổi trội hơn, sáng rõ hơn. Trong việc cảm thụ văn chương, chúng ta không thể tách bạch giữa nội dung và hình thức, bởi chúng là một thể thống nhất, là một mối quan hệ tương hỗ, gắn kết mật thiết. Với những nét đổi mới trong thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng vậy, người viết hướng theo hai khía cạnh nhưng trong quá trình phân giải, phương diện nghệ thuật sẽ cũng là lăng kính soi chiếu những cảm xúc, tư tưởng đổi mới của nhà thơ.

Trước hết, những vần thơ của người con đất Hoan Diễn luôn thể hiện rõ ý thức nuôi giữ mạch nguồn thể thơ truyền thống bằng chất sống mới, bằng thể nghiệm mới: “Trên con đường vô định, tôi đã đi tìm thơ gần trọn cuộc đời, để quay về với ngôn ngữ thơ ca nhịp chẵn của dân tộc mình”. Với niềm đam mê nhịp chẵn của thể thơ dân tộc, Nguyễn Trọng Tạo đã thổi cái nét riêng, nét mới vào hai thể thơ tiêu biểu: đồng dao và lục bát. Từ thể đồng dao truyền thống với bốn chữ, nhịp hai nhà thơ đã biến tấu tài hoa thành tám chữ nhịp hai:
Có cha/ có mẹ/ có trẻ/ mồ côi
Có ông/ trăng tròn/ nào phải/ mâm xôi

Có thương/ có nhớ/ có khóc/ có cười
Có cái/ chớp mắt/ đã nghìn/ năm trôi

(Đồng dao cho người lớn)

Chính sự biến cải ấy đã giúp cho nhà thơ chuyển tải xa hơn, sâu hơn những vấn đề ngổn ngang, phức tạp trong cuộc sống hiện đại đa thanh đa điệu, trong những góc khuất thẳm sâu của tình đời, tình người. Nhà phê bình Đỗ Trọng Khơi đã có một nhận định rất sâu sắc về sự biến tấu tinh tế này: “Thể đồng dao thường được hồn dân gian nuôi ở nhịp bốn chữ. Đồng dao của Nguyễn Trọng Tao viết ở thể tám chữ. Nhưng soi chẻ rạch ròi thấy thực chất vẫn tiếp nối thể bốn chữ dân gian. Là một nhạc sĩ, nên ông đã khéo đưa cái tài nhạc sang thơ, chuyển nhịp 4/4 (nhịp phức) sang nhịp 2/8 (nhịp đơn). Sự công phu gây hiệu quả là, ở dạng nhịp đơn (8 chữ) nhịp điệu thơ chuyển nhanh hơn, sáng hơn; bởi vậy, ông dấu được kín hơn cái ẩn ý của sự so sánh, tính đối chứng. Ông đã lấy cái sáng, cái trong trẻo của nhạc điệu để ém giấu cái u uẩn, cái nhoè mờ của tư tưởng tình cảm. Nào là cái chết (cánh rừng chết) nhưng lại vẫn xanh; nào là sự sống (con người sống) nhưng lại như đã qua đời… Sự hữu hạn lồng trong sự vô hạn, và ngược lại…”

Nguyễn Trọng Tạo cũng rất thành công khi lạ hoá thể thơ lục bát. Đây là thể thơ nặng hồn dân tộc, khi bước vào thế giới thơ của ông, nó sẽ hiện lên với một hơi thở mới, điệu hồn mới. Sự độc đáo, mới mẻ ấy không chỉ cập bến ở hình thức xuống thang, tách chia câu chữ, chấm câu giữa dòng mà trên tất cả là sự mới mẻ nảy nở từ nội dung, như chính nhà thơ tâm niệm: “việc làm mới lục bát bằng nội dung mới là điều quan trọng”. Như trong bài thơ “Chia”, Nguyễn Trọng Tạo đã làm lạ khuôn hình sáu tám bằng hình thức xuống thang, chia cắt ngôn từ, biến đổi cấu trúc dòng thơ, xây dựng những hình thức nhịp điệu, tiết điệu mới. Hình thức ấy tạo nên một hiệu ứng xúc cảm mới, một cách thẩm thấu nội dung mới: câu chữ tác động đến giọng điệu, giọng điệu lại khơi bật những cung đường cảm xúc.
chia cho em một đời tôi
một cay đắng
một niềm vui
một buồn
tôi còn cái xác không hồn
cái chai không rượu tôi còn vỏ chai
chia cho em một đời say
một cây si
với
một cây bồ đề
tôi còn đâu nữa đam mê
trời chang chang nắng tôi về héo khô

Ta có thể cảm nhận trực tiếp từng cung điệu tâm hồn, từng nỗi niềm của “tôi” đang phân tách, đang chia rời để hướng đến thế giới của “em”. Những biến chuyển trong “phép chia” lạ thường ấy không chỉ tác động đến chúng ta qua ý nghĩa ngôn từ mà còn thông qua ấn tượng thị giác, cảm giác. Như vậy nhà thơ đã tạo ra những ấn tượng mới trên những thể thơ truyền thống của dân tộc. Với ông, việc cách tân không đồng nghĩa với sự phủ nhận, “cách li” những thể thơ cũ để tìm đến với những thể thơ hoàn toàn mới lạ. Đánh giá sau của Nguyễn Đăng Điệp thật đúng với trường hợp của Nguyễn TrọngTạo: “Anh biết nâng niu di sản văn hoá quê hương và cố gắng tạo nên sự “hoà giải” giữa cái cũ và cái mới trong thơ”.
Bên cạnh cố gắng làm mới thể thơ truyền thống, Nguyễn Trọng Tạo còn tạo cho thơ mình một sức cuốn hút khác, đó là sự dẫn dắt người đọc vào thế giới của âm nhạc, của trường cảm xúc phiêu diêu, của những âm điệu đầy ma lực. Là một nhạc sĩ, Nguyễn Trọng Tạo sẽ có lợi thế lớn khi mang chất nhạc đến cho thơ. Giai điệu ví dặm chân chất, mặn mòi mà ông yêu chiều sẽ được thăng hoa trong thơ, sẽ được khoác thêm những thanh âm mới lạ khi những tiếng thơ ấy hướng đến những xúc cảm hiện đại, những nghĩ suy hiện thời:
Cỏ may khâu áo làng quê
Cớ chi gió thổi bay về trời cao
Ta lên sân thượng chạm vào
Cỏ may. Ta cúi xuống chào… Cỏ may!

(Cỏ may trên sân thượng)

cầm lòng thôi khỏi khóc cười
có người nuôi nhớ bởi người nuôi quên
cầm lòng rời bến ơi thuyền
thuyền xa bến hẹn sông hiền sóng ngoan
cầm lòng một mái thời gian
một đèn lẻ bóng một trang động tình

(Cầm lòng)

Nhà thơ đã tựa vào âm nhạc để trải bày những suy tư của mình, lấy nhạc thơ để diễn tả những nốt nhạc lòng. Người đọc sẽ không say trong giai điệu, không quá rơi vào vực nhạc mà quên đi phần ý, phần nghĩa. Trong cái vần điệu nhịp nhàng kia, ta thấu cảm cái tình, cái tình bất ngờ, cái tình tươi mới: tình trao mắt cho thơ – trời xanh mi ướt bờ – tình trao nắng cho mưa – chìm vào nhau bất ngờ (Rượu chát). Chất nhạc được khởi tạo từ nhiều yếu tố, trong đó phép điệp là yếu tố có giá trị biểu đạt cao nhất. Phép điệp – biện pháp tu từ nghệ thuật không hề xa lạ trong vô vàn thi phẩm lại tạo được một ấn tượng riêng trong thơ Nguyễn Trọng Tạo. Ta thường bắt gặp trong thơ ông cách tổ chức điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc – điệp trong bài, điệp bằng hai lối câu song song, nương tựa nhau…Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp, phép tu từ này đã mang đến cho thơ Nguyễn Trọng Tạo những giá trị biểu đạt bất ngờ: “Sự chặt chẽ trong cấu tứ và sự trùng phức về giai điệu. Sự “nhoè mờ” nghệ thuật giữa các chữ trong câu thơ. Trên cơ sở đó tạo nên những bất ngờ và bung phá”. Cảm nhận một thi phẩm tiêu biểu của nhà thơ – “Đồng dao cho người lớn”, chúng ta sẽ nhận thấy hiệu quả ấy. Soi chiếu từng câu chữ của bài thơ chúng ta bắt gặp từ “có” được lăp lại 16 lần bên cạnh từ “mà” được lặp lại 6 lần. Chúng ta biết rằng “Đồng dao cho người lớn” đã đụng đến những vấn đề “rất người lớn”. Đó là cái sống cái chết, cái nghĩa cái tình của con người đối với kiếp người và đặt ra những quan niệm về tình yêu, về thời gian, về quy luật nhận thức của con người đối với tự nhiên và xã hội. Biện pháp điệp từ đã giúp tác giả chuyển tải những tư tưởng ấy một cách đầy nhạc tính, cuốn hút chứ không phải là sự triết luận khô khan. Tác giả đưa ra những mệnh đề rồi cũng chính tác giả phủ định những mệnh đề ấy, dọc theo bài thơ là sự đối lập: “có cha có mẹ có trẻ mồ côi. Có ông trăng tròn nào phải mâm xôi”….vừa “có” đấy lại bị phủ nhận ngay sau tiếng “mà” đầy gợi mở !

Hình thức điệp cấu trúc cũng giúp cho nhà thơ thể hiện một cách tinh tế những cung bậc của xúc cảm. Để bày tỏ triết lý về con người và cuộc đời cấu trúc đối lập được lặp lại: Mỗi mặt đối lập thể hiện bằng bốn chữ:
“Có cánh rừng chết >< vẫn xanh trong tôi
Có con người sống >< mà như qua đời”…

Tuy nhiên, hai dòng thơ thứ 9 và 10 chuyển sang giọng điệu trữ tình: “Mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ / Mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió“. Tình thơ dào dạt kết hợp với bốn từ “vẫn” gắn với thiên nhiên bao la “vẫn sông… vẫn cỏ” với cuộc đời và hồn người “đời vẫn say… hồn vẫn gió” đã khẳng định niềm tin vào cuộc đời và con người, mặc dù còn có bao nhiêu điều ngộ nhận: “…ngoại tình ngỡ là tiệc cưới”, “…trăng tròn nào phải mâm xôi”…

Hay như khi muốn biểu đạt một cách ý nhị nỗi niềm trắc ẩn, nỗi cô đơn, đắng đót của kẻ mang bản mệnh đa đoan, một bản thể chênh vênh, khắc khoải trong cuộc đời thường, nhà thơ lại lặp lại vần điệu với những “nửa” chơi vơi:
Vẽ tôi mực rượu giấy trời
nửa say nửa tỉnh nửa cười nửa đau
vẽ tôi thơ viết nửa câu
nửa câu ma quỷ đêm sâu gọi về…

(Tự hoạ)

Nhà thơ đã lưu lại một dư vị thơ rất riêng, một trái tim thơ đầy nhạc. Người đọc dễ thấu cảm điệu hồn của nhà thơ và cũng tìm thấy trong những vần thơ quen mà lạ ấy sự khơi mở chính tâm hồn của mình.

Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha đã từng nhận xét về Nguyễn Trọng Tạo: “Một người “ngả nghiêng với những khát vọng cách tân nghệ thuật… ứa nghẹn những bức bách đời thường”. Thật vậy, nhà thơ luôn miệt mài lao động nghệ thuật để thổi hồn mới cho trang thơ của mình, làm cho những bài thơ của mình mang hình sắc riêng, là “một phát minh về hình thức, một khám phá về nội dung”. Khi đọc thơ ông chúng ta bắt gặp ngay “chất Nguyễn Trọng Tạo”, đặc biệt là cách sử dụng biện pháp tu từ quen thuộc, nương mình trên phông nền truyền thống để tạo dựng một sức bật vươn đến những tứ thơ lạ, những cách tổ chức ý tưởng thơ độc đáo. Nguyễn Trọng Tạo đã có những đóng góp tích cực cho quá trình đổi mới thơ ca. Những đóng góp đáng quý ấy một lần nữa khơi nhắc ý niệm: “Lẽ sống của Thơ là sự đổi mới không ngừng”. [1]


[1Nguyễn Trọng Tạo sinh năm 1947, tại Diễn Châu, Nghệ An. Ông vừa là nhà thơ, vừa là nhạc sĩ, nhà báo, hoạ sĩ vẽ bìa sách Việt Nam. Ông là tác giả của những tập thơ, trường ca nổi tiếng được nhiều thế hệ yêu thích như Đồng dao cho người lớn, Nương thân, Thế giới không còn trăng, Con đường của những vì sao (hay còn được biết đến với cái tên Trường ca Đồng Lộc)...

Những ai đã từng biết đến Nguyễn Trọng Tạo qua các ca khúc nổi tiếng như Khúc hát sông quê, hay Làng quan họ quê tôi hẳn sẽ rất ngạc nhiên trước một gia tài thơ đồ sộ của ông. Mặc dù đây mới chỉ là tập sơ tuyển nhưng Nguyễn Trọng Tạo – thơ và trường ca đã dày tới 556 trang, gồm 296 bài thơ, và 2 trường ca là Con đường của những vì saoTrường ca người lính. Đây là cuốn sách được nhà nước đặt hàng, cấp kinh phí để in 500 cuốn cho các thư viện trung ương và địa phương. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo chia sẻ, ông đã tự mình lựa chọn các tác phẩm để đưa vào cuốn sách này và có thể coi đó là những tác phẩm tiêu biểu nhất, đánh dấu một chặng đường sáng tác đầy say mê và trách nhiệm của nhà thơ xứ Nghệ kể từ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đến sau đổi mới và cho tới ngày hôm nay.

Theo nhận định của các nhà phê bình, nhà nghiên cứu có mặt tại buổi ra mắt, điều đáng ghi nhận ở nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo chính là ở chỗ ông luôn nỗ lực để khơi lên nguồn cảm hứng mới, nỗ lực tìm tòi và cách tân những thể loại thơ truyền thống, từ đó có những đóng góp nhất định cho tiến trình hiện đại hoá thơ ca Việt Nam những năm qua.

“Nỗ lực cách tân của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo bắt đầu được thể hiện rõ nét từ bài Tản mạn thời tôi sống năm 1982. Thời điểm đó hầu như các cây bút vẫn còn đang bằng lòng với những gì đã có, nhưng Nguyễn Trọng Tạo đã dũng cảm làm mới mình không chỉ trong cách cảm nhận, cắt nghĩa về hiện thực đời sống thời bấy giờ mà còn đặt ra vấn đề phải đổi mới thơ ca để có thể theo kịp thời đại. Sau này anh Tạo còn sáng tạo ra loại thơ đồng dao tám chữ nhịp đôi đặc sắc, rồi cải tạo về nhịp của thơ lục bát. Đó là những cách tân trên nền truyền thống mà tôi gọi là đến hiện đại từ truyền thống, vì thế những cái mới của anh ấy không hề gây sốc mà được nhiều người yêu thích” – nhà phê bình văn học Văn Giá nhận định.

Trong buổi giao lưu, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo vui vẻ chia sẻ, ông sẽ vẫn tiếp tục đi theo con đường thơ riêng của mình: “Tôi luôn cố gắng tìm một con đường để cho thơ của tôi gần gũi hơn với cuộc đời, với bạn đọc. Tôi không đi theo con đường cách tân mang hơi hướng thơ phương Tây mà nhiều bạn thơ của tôi đã làm. Tôi muốn thơ mình vừa hiện đại nhưng vẫn phảng phất hương vị truyền thống của phương Đông. Tạo ra được một giọng điệu riêng trên nền những cái đã quen thuộc thực sự là một điều rất khó”.

Kiến Văn (TT&VH)