Trang nhà > Khoa học > Không gian > Cuộc đua Không quân 2011: Siêu nhanh, tàng hình, không người lái
Cuộc đua Không quân 2011: Siêu nhanh, tàng hình, không người lái
Thứ Bảy 24, Tháng Mười Hai 2011
Hiện đại hoá quốc phòng diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Không quân đã thành một mũi nhọn trong cuộc chạy đua chất lượng vũ khí giữa các cường quốc. Các nước lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ đua nhau tăng tốc sản xuất các loại máy bay tàng hình siêu hạng và không người lái, vũ khí siêu nhanh hoặc loại không người lái
Mặc dù một số loại vũ khí mới này còn ở giai đoạn thử nghiệm, còn gặp nhiều trục trặc, nhưng giới quan sát ghi nhận những thành quả bước đầu. Đó là một một xu thế mới và không thể đảo ngược.
Tuy nhiên, việc một máy bay không người lái tiên tiến của Mỹ bị "hạ" (bắt sống) bằng công nghệ "chiến tranh điện tử" của Iran đã bộc lộ những khiếm khuyết của hệ thống vũ khí mới. Iran và các đồng minh của họ có một viên ngọc bích hầu như nguyên vẹn để nghiên cứu phát triển loại vũ khí không người lái và chống không người lái. Mặt khác, công nghệ Mỹ sẽ tiếp tục được cải tiến từ những tổn thất không tránh khỏi trên chiến trường. Và vũ khí lại đẻ ra vũ khí, như từng phải vậy.
Mỹ: vũ khí bay siêu nhanh toàn cầu
Mạng Báo cáo Tình báo Hàng ngày (Mỹ) cuối năm ngoái cho biết các nhà khoa học Bộ Quốc phòng Mỹ sẽ thử nghiệm lần hai loại vũ khí siêu hạng HTV-2 Falcon vào năm 2011. Máy bay Falcon với tốc độ bay nhanh hơn 5 lần tốc độ âm thanh, nằm trong Chương trình Tiến công Toàn cầu Nhanh hơn Thông thường (CPGS) của Lầu Năm Góc - một chương trình nhằm phát triển các loại vũ khí chiến lược phi hạt nhân - có thể phát động một cuộc tiến công thông thường ở bất cứ đâu trên thế giới trong thời gian chưa đến một giờ.
Máy bay Falcon nhằm đạt tới tốc độ bay nhanh hơn 5 lần tốc độ âm thanh, đang trong quá trình chế tạo, đã qua lần thử đầu tiên chưa thành công
Theo một số nhà phân tích, kết quả của lần thử nghiệm thứ nhất đặt ra nhiều vấn đề nghi vấn về cách triển khai chương trình. Cơ quan phụ trách Dự án Nghiên cứu Vũ khí Phòng thủ Hiện đại (DARPA) của Lầu Năm Góc cho biết trên cơ sở những sai sót trong cuộc thử nghiệm thứ nhất, DARPA đã xem xét và ủng hộ hàng loạt biện pháp cho chuyến bay thử nghiệm lần hai vào năm 2011.
Lầu Năm Góc phát triển thế hệ vũ khí nhanh hơn tốc độ âm thanh nhằm đạt được khả năng phát động một đòn tiến công chớp nhoáng trước các mối đe doạ khẩn cấp như bọn khủng bố hoặc các nước thù địch sở hữu các loại vũ khí hạt nhân. Chương trình sản xuất máy bay Falcon, cùng với kế hoạch tăng cường không quân, chỉ là một trong hàng loạt chương trình tiến công tầm xa của Mỹ.
Một báo cáo của Cơ quan Nghiên cứu thuộc Quốc hội Mỹ về chương trình tiến công toàn cầu cho biết Mỹ sẽ phát triển các loại vũ khí có thể nhanh chóng tiến công trên toàn cầu bằng các lực lượng thông thường nhằm chống lại các mục tiêu quan trọng trong vài phút hoặc vài giờ sau thời gian vài ngày hoặc vài tuần lập kế hoạch. Báo cáo cho biết thêm hãng Lockheed Martin hiện sử dụng loại đầu đạn chiến thuật được điều khiển chính xác, gọi là đầu đạn “ER”, để chế tạo vũ khí HTV-2. Tuy nhiên, một quan chức phụ trách việc phát triển vũ khí nhận định chuyến bay thử nghiệm đầu tiên đã đặt ra nhiều vấn đề quan trọng về nhận thức và việc thực hiện dự án của DARPA. “Rõ ràng vẫn còn khó khăn trong chuyến bay có tốc độ nhanh hơn 5 lần tốc độ âm thanh”.
Theo giới hoạch định chính sách, các loại vũ khí tiến công thông thường tầm xa sẽ giải quyết các mối đe doạ như các loại vũ khí hạt nhân của bọn khủng bố và giúp Mỹ giảm bớt lệ thuộc vào các loại vũ khí hạt nhân như một lựa chọn chiến lược trong các cuộc xung đột thông thường.
Đầu năm 2011, Bộ Quốc phòng Mỹ đã tiến hành chuyến bay thử nghiệm đầu tiên cho chiếc máy bay ném bom tàng hình không người lái X-47B. Đây là máy bay cường kích có thể cất cánh từ tàu sân bay, do Công ty quốc phòng Northrop Grumman thiết kế cho Hải quân Mỹ. X-47B đã bay thử nghiệm trong vòng 29 phút tại Căn cứ Không quân Edwards và đạt độ cao gần 1.500 mét.X-47B thuộc loại không đuôi, cất cánh bằng động cơ phản lực, hoàn toàn tàng hình trước rađa và bay nhanh hơn nhiều so với các máy bay tàng hình dùng động cơ cánh quạt hiện nay của Mỹ, như Predator và Reaper... Máy bay này giúp hình thành một thế hệ máy bay không người lái mới và hoạt động như phiên bản thu nhỏ của chiếc máy bay tàng hình B-2. Trong một thông báo của nhà sản xuất, chuyến bay này được tiến hành chủ yếu để thử nghiệm các hệ thống dẫn đường và định vị, cũng như khả năng kiểm soát của hệ thống thiết kế không đuôi.
Vài năm nữa X-47B mới được phiên chế cho Hải quân, song giới chức Mỹ cho biết X-47B sẽ có chuyến bay thử đầu tiên trên tàu sân bay vào năm 2013. Mỹ cũng thử nghiệm thành công loại trực thăng tấn công điều khiển bằng robot, cất cánh trên các tàu khu trục nhỏ.
Trung Quốc: J-20 còn nhiều nghi vấn
Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc của Jamestown Foundation (Mỹ) đánh giá về máy bay tàng hình J-20 là một dấu mốc chiến lược quan trọng ở nhiều khía cạnh khác nhau, và là một trong các nỗ lực của Trung Quốc nhằm phát triển công nghệ vũ khí hiện đại. J-20 là chiếc máy bay chiến đấu đầu tiên do Trung Quốc chế tạo đáp ứng các tiêu chí “hiện đại” của phương Tây. Trung Quốc đã đạt được công nghệ “thiết kế tàng hình”. Nó cho thấy Trung Quốc đã thành công trong việc kết hợp hoạch định chiến lược với việc xác định rõ tính năng của một chiếc máy bay chiến đấu hiện đại. Khi được chế tạo hoàn chỉnh, J-20 có thể làm thay đổi cán cân lực lượng khu vực trong cuộc chơi chiến lược không quân ở châu Á.
J-20 là máy bay lớn, ngang bằng với loại F/FB-111 của Mỹ, hoặc FB-22A, chiếc máy bay ném bom đã đề xuất nhưng chưa bao giờ được chế tạo. Trọng lượng của chiếc máy bay trống vào khoảng 18,5-22,5 tấn. Tầm hoạt động dưới tốc độ âm thanh sẽ vào khoảng 1000-1500 hải lý. Hình dáng của chiếc J-20 thử nghiệm có ý nghĩa quan trọng dưới góc độ khí động học và khả năng tàng hình.
Máy bay cường kích tàng hình J-20, trình làng lần đầu tháng 1/2011, đang trong quá trình hoàn thiện, sẽ là một đối thủ đáng gờm đối với không lực của các nước lớn khác
Cấu hình tam giác khuyết của chiếc J-20 tương tự như chiếc Eurofighter Typhoon của châu Âu, chiếc Rafale của Pháp, và chiếc siêu máy bay chiến đấu hành trình MIG I.42 đang thử nghiệm của Nga. Thiết kế này mang lại tính năng cao ở tốc độ siêu thanh, tính năng tuyệt vời ở tốc độ gần âm thanh, và khả năng hạ cánh trên đường băng ngắn tốt hơn các thiết kế tam giác truyền thống. Nếu được trang bị các động cơ thích hợp, J-20 sẽ rất hiệu quả ở chế độ bay hành trình siêu thanh, khả năng tác chiến tuyệt vời ở cự ly gần. Hiện loại động cơ cho J-20 vẫn chưa được công bố.
Chi tiết thiết kế khung máy bay của chiếc J-20 rõ ràng dựa trên các nguyên tắc thiết kế vỏ do Mỹ đưa ra, được áp dụng chủ yếu cho chiếc Raptor F-22A, nhưng với động cơ nằm bên trong, gần hơn với chiếc máy bay chiến đấu hỗn hợp F-35. Chiếc J-20 này có thể có tính năng tàng hình tốt hơn nhiều từ phía trước và hai bên so với chiếc F-35, và có thể ngang bằng với chiếc F-22A, nếu các nhà thiết kế Trung Quốc đạt được đủ trình độ về chất liệu và kỹ thuật thiết kế chi tiết.
Thiết kế này có vẻ chỉ có hai điểm yếu duy nhất, một là đường cong ở bên sườn gây ra nhiều phản xạ hơn mức cần thiết và ống xả khí hình tròn, một điểm yếu chung của chiếc F-35 và T-50. J-20, một khi được thiết kế hoàn chỉnh, sẽ là máy bay tàng hình có tính năng hoạt động cao, có thể cạnh tranh với chiếc F-22A của Mỹ ở bốn phương diện chính là tốc độ, độ cao, tàng hình và sự linh hoạt, và cao hơn ở hầu hết các tính năng so với chiếc F-35.
Sự kết hợp công nghệ tàng hình và tốc độ siêu thanh của chiếc J-20 - tính năng của chiếc Raptor F-22A - mang lại khả năng đánh bại hầu như tất cả các hệ thống phòng không hiện có. Một điều quan trọng nữa là kích thước lớn của chiếc J-20, và vì thế nếu bay ở chế độ hành trình dưới tốc độ âm thanh tiết kiệm nhiên liệu, nó có khả năng vươn tới các mục tiêu ở tầm 1000 hải lý và không cần tiếp nhiên liệu trên không. Nếu xuất phát từ các căn cứ không quân của Quân giải phóng Trung Quốc dọc theo bờ biển phía Đông của Trung Quốc đại lục, J-20 sẽ dễ dàng đạt tới bất cứ mục tiêu nào trong phạm vi “Chuỗi đảo thứ nhất” ngoài khơi Trung Quốc mà không cần tiếp nhiên liệu. Các mục tiêu trong phạm vi này bao gồm các căn cứ không quân tại Nhật Bản, Hàn Quốc và các căn cứ không quân cũ của Mỹ ở Philippines. Với sự hỗ trợ nhiên liệu trên không bình thường, J-20 có thể vươn tới hầu hết các mục tiêu trong “Chuỗi đảo thứ hai”, kể cả các căn cứ hết sức quan trọng về chiến lược trên đảo Guam.
Chủ tịch Ủy ban Quân lực thuộc Hạ nghị viện Mỹ, ông Buck McKeon nhận định rằng Trung Quốc có được công nghệ máy bay tàng hình này từ Nga: “Họ chế tạo máy bay này dựa trên thông tin nhận được từ phía Nga, từ một máy bay của Nga mà họ có thể mô phỏng theo”.
Giám đốc Cơ quan Tình báo Hải quân Mỹ, Phó Đô đốc David Dorsett, đã hạ thấp mối lo ngại từ máy bay tiêm kích tàng hình đầu tiên của Trung Quốc, song thừa nhận rằng Mỹ ngạc nhiên trước tốc độ phát triển quân sự của Trung Quốc. Người phát ngôn của Bộ Quốc phòng Mỹ từng tuyên bố sau khi Trung Quốc công bố những hình ảnh mà họ nói là chuyến bay thử đầu tiên của máy bay tiêm kích tàng hình J-20 ở Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, hồi tháng 1/2011, cho rằng Trung Quốc còn lâu mới đưa vào sử dụng khả năng phản lực cơ chiến đấu có thể sánh với hàng trăm máy bay tối tân, tránh né được rađa mà Mỹ đã, đang và sẽ triển khai.
Tuy nhiên, nếu công nghệ động cơ của Trung Quốc chưa đủ cao vào nửa cuối của thập kỷ này theo kế hoạch cho J-20, các phiên bản đầu tiên có thể được sử dụng làm máy bay tấn công hoặc đánh chặn, và các phiên bản sau với động cơ mạnh hơn sẽ có tính năng không chiến.
Tác động chiến lược của việc sản xuất máy bay J-20 hoàn chỉnh, kể cả trong trường hợp chỉ hạn chế ở vai trò tấn công, sẽ rất sâu rộng. Ngay cả trường hợp bị một rađa chống tàng hình phát hiện, tầm hoạt động cao ở tốc độ siêu thanh sẽ khiến máy bay chiến đấu hoặc tên lửa đất đối không của đối phương cực kỳ khó phát huy tác dụng. Các máy bay chiến đấu duy nhất được sử dụng ở vành đai Thái Bình Dương có khả năng đánh chặn máy bay siêu thanh J-20 là chiếc Raptor F-22A của Mỹ và MIG-31 Foxhound của Nga. Ngoài ra, Trung Quốc đang chạy đua đẩy mạnh chương trình sản xuất máy bay không người lái.
Ấn Độ: Thử máy bay không người lái đầu tiên
Trong cuộc chạy đua ráo riết về máy bay không người lái, Ấn Độ đã vào cuộc. Hồi tháng 5/2011, Ấn Độ đã tiến hành thành công chuyến bay thử của chiếc máy bay không người lái đầu tiên do nước này tự chế tạo mang tên Ruston-1. Máy bay này là sản phẩm hợp tác giữa DRDO và Cơ quan phát triển hàng không Ấn Độ (ADE). Máy bay được chuyển đổi từ loại máy bay có người lái với các trang thiết bị điện, cơ khí và khí động lực cải tiến, có khả năng bay liên tục trong 14 giờ với tầm bay tối đa 13.000 km.
Trong chuyến bay thử, Ruston-1 đã hoạt động chính xác theo điều khiển từ mặt đất, do đó ADE sẽ đẩy nhanh tiến trình tích hợp tải trọng mang theo trên máy bay trong các tháng tới.
Nguyễn Ngọc Trường (TQ)