Sự hình thành và phát triển xã hội công dân ở Trung Quốc

Trung Hoa

Xã hội công dân (XHCD) là tên gọi chung tập hợp các đoàn thể tự nguyện của công dân lập ra nhằm bảo vệ lợi ích của họ và thực hiện tham gia tự quản lý xã hội, hỗ trợ chính quyền nhà nước làm tốt chức năng quản trị đất nước. XHCD có tác dụng hạn chế nạn tham nhũng của bộ máy quyền lực nhà nước và nạn mù quáng trục lợi của các doanh nghiệp – hai nguy cơ thường trực xâm phạm lợi ích của công dân, do đó ngăn chặn được nguy cơ chế độ nhà nước suy thoái thậm chí sụp đổ. Tầng lớp trung lưu ra đời trong nền kinh tế thị trường là lực lượng chủ yếu làm nên XHCD.

Điều kiện tất yếu để hình thành XHCD là chính trị dân chủ và kinh tế thị trường; đồng thời sự phát triển XHCD lại củng cố và phát triển hai yếu tố này. Cũng vì vậy, các thế lực độc tài chuyên chế luôn tìm mọi cách chống lại XHCD. Xây dựng xã hội chính trị dân chủ và kinh tế thị trường là xu thế không thể ngăn cản của nhân loại; vì thế XHCD là một tất yếu lịch sử.

Trước cải cách mở cửa, Trung Quốc thực hành thể chế chính trị Hợp nhất chính quyền và xã hội và cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung. Chính quyền làm cả hai chức năng chính trị và kinh tế, quyền lực nhà nước bao trùm tất cả mọi lĩnh vực, quản lý toàn bộ cuộc sống tinh thần và vật chất của từng người. Mỗi công dân đều bị buộc chặt vào «đơn vị công tác» cố định của mình (ở nông thôn là công xã nhân dân), họ chỉ được hưởng một số quyền tự do dân chủ hạn chế, không được tự do lập hội. Các đoàn thể quần chúng do nhà nước lập ra chỉ là nơi quản lý, giáo dục dân. Trong nước chỉ tồn tại hai lĩnh vực là nhà nước (gồm chính quyền, đảng, đoàn thể quần chúng do đảng lập ra và lãnh đạo, tức hệ thống chuyên chính vô sản) và cá nhân, hầu như không tồn tại lĩnh vực trung gian là xã hội, dĩ nhiên không thể có XHCD. Bộ máy chuyên chính dựa vào ý chí của người lãnh đạo để quản lý xã hội; quyền lực không chịu sự ràng buộc của hiến pháp, pháp luật. Thể chế chính trị này tạo sự nhất trí cao giữa nhà nước với nhân dân (ít nhất về hình thức); nói chung quan chức nhà nước ít tham nhũng; kinh tế kém phát triển, xã hội nghèo nhưng tương đối công bằng, ổn định.

I. Quá trình hình thành và phát triển xã hội công dân tại Trung Quốc

Từ thập niên 80 Trung Quốc bắt đầu thực hiện cải cách mở cửa, chủ trương tách rời chính quyền với xã hội, xây dựng nhà nước pháp trị.

Công cuộc cải cách thể chế kinh tế theo định hướng thị trường đã nâng cao đáng kể sức sản xuất xã hội và đời sống nhân dân. Đây là nguồn gốc sâu xa nhất làm cho các tổ chức dân gian có dịp phát triển nhanh chóng. Kinh tế thị trường yêu cầu các doanh nghiệp phải trở thành pháp nhân độc lập có quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu lỗ lãi, vì thế chính quyền và doanh nghiệp phải tách khỏi nhau. Trong cơ chế đó, quyền tự chủ của doanh nghiệp tăng lên rõ rệt, tạo khả năng để một số hội đoàn ngành nghề và đồng nghiệp trở nên tương đối độc lập với chính quyền. Mặt khác, kinh tế thị trường làm tăng độ rủi ro của doanh nghiệp, giới doanh nhân phải lập ra các hội đoàn có tính ngành nghề để tự bảo vệ lợi ích của mình. Nhằm tìm kiếm môi trường cạnh tranh công bằng với khối doanh nghiệp quốc doanh, các chủ doanh nghiệp tư nhân cần lập các tổ chức tự nguyện để giúp đỡ nhau (như các câu lạc bộ doanh nhân).

Kinh tế thị trường thừa nhận sở hữu tư nhân, do đó tạo ra tầng lớp hữu sản, trong đó có tầng lớp trung lưu, vừa có của vừa có trí thức, họ hăng hái lập ra các đoàn thể tự nguyện để bảo vệ lợi ích của mình, đòi mở rộng tự do dân chủ và tham gia việc hoạch định chủ trương chính sách của nhà nước. Xét theo tiêu chuẩn trung lưu nêu trong báo cáo năm 2006 của Ngân hàng Thế giới là thu nhập đầu người hàng năm đạt 4000 17000 USD (GDP đầu người Trung Quốc năm 2010 là 4277 USD), năm 2008 tầng lớp trung lưu ở Trung Quốc chiếm 22-23% tổng số dân hoặc 300 triệu người và tăng hàng năm 1%.

Cải cách mở cửa đã nâng cao đáng kể đời sống nhân dân cả nước, nhờ đó công dân có điều kiện tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá, thể thao, du lịch..., qua đó tự phát lập ra các tổ chức công dân, hội ngành nghề, câu lạc bộ v.v… Cũng do đời sống khá nên họ có điều kiện cung cấp tài chính cho các tổ chức đó hoạt động.

Đồng thời Trung Quốc đã thực hiện những thay đổi lớn về chính trị: - Nhà nước ngày càng tôn trọng pháp chế, pháp trị, như cho dân chúng thực hiện quyền tự do lập hội và mít tinh biểu tình (đã ghi trong Hiến pháp nhưng trước đây không thi hành); - Nhà nước dần dần tách khỏi xã hội, trước hết là xã hội kinh tế (tức khối doanh nghiệp); Trung ương phân chia bớt quyền lực cho địa phương; chính quyền nới lỏng quản lý công dân. Từ giữa thập niên 80 bắt đầu thực hiện nông thôn tự quản, nông dân trực tiếp bầu ra Ủy ban Thôn dân để giải quyết mọi công việc trong làng, không chịu sự lãnh đạo của chính quyền. - Tinh giản bộ máy nhà nước, giảm chức năng kinh tế, xã hội, tăng cường chức năng quản lý hành chính; chính quyền không còn quản lý sản xuất kinh doanh, các việc dân sự, văn hoá nghệ thuật, học thuật nữa, mà để các tổ chức dân gian (như các hội ngành nghề) tự quản lý.

Đã thực hiện thay đổi cách quản trị xã hội, như mở rộng dân chủ ở cơ sở, thực hiện công dân tự quản, chính trị trong suốt, xã hội giám sát chính quyền, công khai tài chính, tổ chức kiểm toán. Mở rộng dân chủ cơ sở là thành tích nổi bật nhất. Như đã mở rộng quyền trực tiếp bầu cử, ban hành Luật Bầu cử, quy định Hội đồng nhân dân (Quốc hội) từ cấp huyện trở xuống phải do cử tri trực tiếp bầu, không được đề cử ứng viên mà để dân tự chọn. Ban hành chế độ bầu cử trực tiếp Ủy ban Thôn dân tại mỗi làng xã, Ủy ban Dân phố tại mỗi khu phố ở thành thị, đều không được chỉ định sẵn ứng cử viên. Các Ủy ban này không phải là cơ quan chính quyền mà là tổ chức tự quản, không chịu sự lãnh đạo của chính quyền. Sự thành lập hay Ủy ban này trên phạm vi cả nước là cải cách chính trị quan trọng nhất tại Trung Quốc thời gian qua.

Tuy vậy tập quán hình thành sau nhiều năm sống dưới chế độ toàn trị (1958-1982) đã làm cho nhiều cải cách dân chủ chỉ được thực hiện qua loa đại khái, hình thức; ban hành nhiều văn bản luật pháp nội dung tốt nhưng không chấp hành đúng; như khi bầu cử vẫn chỉ bầu theo danh sách ứng cử viên đã chỉ định sẵn, hoặc không bầu trực tiếp mà do một số « đại biểu dân » bầu; nghĩa là bầu người đã được cấp trên lựa chọn; thực chất dân chưa được làm chủ.

Kinh tế thị trường đem lại sự phân hoá sâu sắc trong xã hội, đặc biệt là phân hoá giàu nghèo, làm tăng bất công xã hội và mâu thuẫn nội bộ. Xã hội chia làm các tầng lớp khác nhau về thu nhập, nguồn lực, địa vị, trình độ văn hoá. Một nghiên cứu mới đây của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc cho biết hiện nay xã hội nước này hình thành 10 tầng lớp: cao nhất là tầng lớp cán bộ quản lý nhà nước và xã hội; thứ nhì là tầng lớp giám đốc doanh nghiệp quốc doanh; thứ ba là tầng lớp chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh; thứ 8, 9 là tầng lớp công nhân xí nghiệp, lao động nông nghiệp; thứ 10 là tầng lớp vô nghề nghiệp, thất nghiệp và nửa thất nghiệp. Ba tầng lớp trên cùng thuộc vào quần thể đặc quyền đặc lợi; ba tầng lớp dưới cùng thuộc quần thể yếu thế, đông người nhất, nghèo nhất và lợi ích của họ bị xâm phạm nhiều nhất.

Kinh tế thị trường đẻ ra lối sống chạy theo đồng tiền, tạo điều kiện phát triển nạn tham nhũng trong giới quan chức nhà nước và thói kinh doanh mù quáng trục lợi trong giới doanh nhân; họ thường dùng cách hối lộ để móc nối với các quan chức nhằm kiếm lợi nhuận tối đa, gây thiệt hại lợi ích của nhân dân. Công nghiệp hoá, đô thị hoá làm cho đất đai – nguồn sống của nông dân, bị thu hẹp, thiệt hại trực tiếp tới lợi ích của họ, trong khi lại làm cho giới doanh nhân kinh doanh bất động sản giàu lên.

Tất cả những điều đó đã làm dân chúng thức tỉnh ý thức tự bảo vệ quyền lợi của mình. Họ đã đứng dậy chống lại giới quan chức tham nhũng và giới doanh nhân trục lợi. Số vụ biểu tình phản kháng tăng lên: năm 1994 có 10 nghìn vụ, năm 2003 – 60 nghìn; quy mô biểu tình lớn dần: năm 1994 có 1400 vụ có từ 100 người trở lên tham gia, năm 2002 – hơn 7000. Công đoàn Trung Quốc cho biết: thời gian 1992-1997 hàng năm bình quân có 1,26 triệu công nhân tham gia các vụ tranh chấp với chủ lao động. Năm 1995 ở 30 đô thị có hơn 1 triệu người tham gia biểu tình phản đối bất công xã hội; năm 1998 có 3,6 triệu người.

Điều đó cũng thúc đẩy tầng lớp trung lưu dẫn đầu dân chúng lập ra các tổ chức tự nguyện để bảo vệ lợi ích của mình, gọi chung là tổ chức xã hội (TCXH). Các cải cách về kinh tế và chính trị nói trên đã tạo điều kiện thuận lợi để xu thế này phát triển rất mạnh từ thập niên 90.

Tính đến năm 2010 Trung Quốc có 450 nghìn TCXH đăng ký hoạt động và 250 nghìn TCXH chuẩn bị đăng ký; nếu kể cả các tổ chức chưa đăng ký thì trên thực tế hiện có khoảng 3 triệu TCXH và tăng hàng năm 8-10%. Tại nông thôn, các Ủy ban Thôn dân là TCXH rộng lớn nhất, năm 1997 đã lập được 739.447 Ủy ban.

Một nguồn số liệu khác nói năm 2003 đã có hơn 8.031.344 TCXH, gồm đã đăng ký 266.000, chưa đăng ký – 290.000, các đoàn thể do nhà nước lập ra như công đoàn, đoàn Thanh niên Cộng sản, Hội Phụ nữ có 5.378.424 tổ chức cơ sở; Hội người tàn tật, Hội Sinh đẻ có kế hoạch, Hội Liên hiệp văn nghệ có 1.338.220 tổ chức cơ sở; ngoài ra còn 758.700 đoàn thể học sinh, văn nghệ, giải trí, thể thao...

Các số liệu khác nhau là do:

  • Tiêu chuẩn xét TCXH không thống nhất, có người nói các đoàn thể quần chúng do nhà nước lập ra (gần 5,4 triệu tổ chức cơ sở) không nên coi là TCXH;
  • Nhiều tổ chức không đăng ký.

Sự xuất hiện nhiều TCXH như vậy (bình quân 400 người có một TCXH; so với 300 ở Mỹ) đã đánh dấu sự ra đời mạnh mẽ XHCD và chấm dứt chế độ Hợp nhất chính trị và xã hội.

Cơ cấu xã hội Trung Quốc đã phân hoá thành 3 khu vực:

  • Khu vực nhà nước với đại diện là quan chức chính quyền, cơ sở là tổ chức chính quyền;
  • Khu vực thị trường với đại diện là các chủ doanh nghiệp, cơ sở là tổ chức doanh nghiệp;
  • Khu vực xã hội công dân (còn gọi là khu vực thứ ba) với đại diện là công dân, cơ sở là mấy triệu tổ chức xã hội (TCXH) nói trên.

Trong đó khu vực thứ ba (tức XHCD) hiện nay vẫn còn ở vào vị thế yếu hơn cả; các phần tử xấu trong hai khu vực kia thường liên kết với nhau để chiếm đoạt lợi ích của khu vực thứ ba.

Giới học giả Trung Quốc cho rằng hiện nay nước này đã hình thành xã hội công dân, là thành quả vĩ đại của cải cách mở cửa.

Đầu năm 2009, nhật báo Frankfurter Allgemeine Zeitung (tên tiếng Anh Frankfurt General Newspaper) của CHLB Đức đăng bài Trung Quốc đã tiến sang xã hội công dân. Tác giả cho rằng đó là do:

  • Tăng trưởng kinh tế và cải cách mở cửa tại Trung Quốc đã dẫn đến các thay đổi lớn về
    mặt xã hội;
  • Tầng lớp trung lưu đã chiếm tỷ lệ khá lớn trong xã hội, họ tự hào vì có căn hộ, xe hơi, có đầu tư chứng khoán và có phong cách sống gần như dân đô thị Âu Mỹ;
  • Dân chúng đô thị Trung Quốc đã quan tâm tới các tầng lớp không có đặc quyền (nông dân, dân công, người thất nghiệp), tới vấn đề môi trường và tham nhũng, họ bắt đầu bàn thảo về luật pháp, đòi có quyền phát ngôn về các chính sách của nhà nước; dân chúng đã lập ra các tổ chức phi chính phủ và hội đoàn giúp lẫn nhau.
  • Mạng Internet và các công cụ thông tin hiện đại thúc đẩy dân chúng hăng hái bàn bạc mọi vấn đề, qua đó ảnh hưởng tới quyết sách của chính quyền.

Nông thôn là nơi diễn ra phản ứng quyết liệt của nông dân đòi quyền làm chủ xã hội, đòi giữ lại đất nông nghiệp. Họ đấu tranh với chính quyền địa phương theo nhiều cách, từ biểu tình ngồi ở trước trụ sở cơ quan chính quyền tới diễu hành trên đường phố hoặc kéo lên ngồi kín đường cao tốc, đường xe lửa. Tuy chính phủ đã có quy định cấm dùng vũ lực đàn áp dân biểu tình nhưng chính quyền một số nơi vẫn dùng cảnh sát để đối phó, gây xung đột bạo lực với người biểu tình.

Điển hình nhất là vụ 11000 nông dân xã Ô Khảm (Quảng Đông) đấu tranh chống bầu cử dân chủ giả hiệu, chống tham nhũng, chống bán đất của dân, bắt đầu từ vụ biểu tình ngày 21/9/2011 tố cáo chính quyền địa phương bán mảnh đất tập thể cuối cùng của xã. Đấu tranh diễn biến phức tạp, tới mức dân biểu tình đánh lại cảnh sát đàn áp, gây thương vong cả hai bên; tiếp đó dân làng đuổi hết cán bộ và cảnh sát; đối lại, chính quyền phong toả làng, cắt lương thực, điện nước và thông tin liên lạc. Ngày 20/12 chính quyền tỉnh Quảng Đông đã nhượng bộ, cử Tổ Công tác do Ủy viên Ban Kỷ luật Trung ương Đảng kiêm Phó Bí thư Tỉnh ủy dẫn đầu xuống xã gặp dân trao đổi ý kiến và tuyên bố: « Các khiếu nại chủ yếu của quần chúng là hợp lý », « Một số hành vi quá khích của đa số quần chúng là có thể thông cảm và tha thứ được, Đảng và chính phủ không truy cứu trách nhiệm của họ » và cách chức cán bộ lãnh đạo chi bộ và Ủy ban Thôn dân (một tổ chức tự quản của nông dân Trung Quốc đã được Hiến pháp 1982 xác nhận và có Luật thực hiện từ năm 1988) hiện có, đồng ý để dân bầu lại Ủy ban Thôn dân theo cách toàn dân xã trực tiếp bỏ phiếu kín, không có đề cử ứng cử viên kiểu Đảng cử dân bầu như trước kia. Kết quả một người lãnh đạo cuộc biểu tình được bầu làm chủ nhiệm Ủy ban; từ đó cuộc đấu tranh chấm dứt. Cuộc bầu cử này đã chứng minh chỉ cải cách kinh tế thôi thì không thể giảm được mâu thuẫn xã hội mà dứt khoát còn phải cải cách chính trị, thực sự để dân làm chủ.

Ngày 19/2/2012, Trung tâm Nghiên cứu Xã hội công dân trường Đại học Bắc Kinh công bố kết quả bình chọn 10 sự kiện xã hội công dân lớn năm 2011 của Trung Quốc, trong đó vụ Ô Khảm được xếp hạng thứ nhất với số phiếu 100%.

Tiến trình xây dựng XHCD ở Trung Quốc khá phức tạp. Đó là do: - Lĩnh vực tư nhân và bảo đảm quyền tư nhân chưa phát triển, thiếu bảo đảm pháp lý; - Các TCXH vẫn chịu sự chỉ đạo của nhà nước; chính quyền vẫn còn nghi kị các tổ chức này; - Chưa hình thành môi trường xã hội cho các TCXH tham gia và bàn bạc công việc chung.

Vụ động đất lớn ở Tứ Xuyên (12/5/2008) đánh dấu bước tiến mạnh của XHCD Trung Quốc. Các TCXH đã tự động hăng hái quyên góp cứu tế với quy mô lớn; đồng thời đòi quyền được thông tin chính xác tình hình, quyền tham gia và giám sát công tác cứu chữa, cứu tế. Tuy vậy các TCXH này còn lúng túng khi tiến hành cứu giúp, chứng tỏ XHCD Trung Quốc còn non nớt. Nhà nước vẫn nghi ngờ và hạn chế hoạt động của họ, như quy định mọi nguồn quyên góp phải đưa vào kênh do nhà nước chỉ định; xe chở đồ cứu tế đều bị khám xét, có giấy phép mới được vào vùng tai nạn.

Sau vụ này, Chính phủ Trung Quốc nhanh chóng nhận thấy tác dụng to lớn của XHCD và đưa ra quan điểm « Nhà nước khuyến khích công dân, pháp nhân và các tổ chức khác tích cực tham gia công tác khôi phục tái thiết sau tai nạn động đất ». Đề tài XHCD được thảo luận rất công khai, rộng rãi, không còn bị kiêng kị nữa.

Công nghệ thông tin và mạng đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự hình thành XHCD. Trung Quốc hiện có 513 triệu dân mạng (135 triệu ở nông thôn) và 850 triệu hộ dùng điện thoại di động, hơn 250 triệu người dùng microblog (weibo) để phát biểu quan điểm của mình, tố cáo tham nhũng, bất công và nạn chính quyền giấu thông tin, qua đó đóng góp rất quan trọng hình thành XHCD. Như trong vụ tai nạn đường sắt cao tốc ở Ôn Châu (23/7/2011), họ đã vạch ra cách xử lý sai lầm của ngành đường sắt, qua đó giúp chính phủ giải quyết vụ này một cách hợp tình hợp lý, tìm ra và khắc phục được nhiều sai sót trong quản lý nhà nước.

Các TCXH nói trên có mặt trong hầu như mọi hoạt động công ích và môi giới, dịch vụ xã hội: văn hoá, y tế vệ sinh, lao động, thể thao, bảo vệ môi trường, pháp lý, từ thiện v.v., sơ bộ hình thành một hệ thống. Riêng hơn 60 nghìn hội ngành nghề đã có hơn 20 triệu hội viên; hơn 40 nghìn hội học thuật tập họp hơn 5 triệu học giả; các hội chuyên ngành liên kết hơn 10 triệu thành viên. Sức mạnh kinh tế của các TCXH tăng đáng kể: tính tới cuối năm 2010 các tổ chức này có vốn cố định gần 109 tỷ RMB (Nhân dân tệ; 1 USD tương đương 7 RMB), thu nhập hàng năm khoảng 124,7 tỷ RMB; thực ra những con số này rất nhỏ so với thực tế .

Các TCXH tích cực tham gia mọi hoạt động kinh tế, thúc đẩy hợp tác và phát triển kinh tế; trong các TCXH hiện có 5,4 triệu nhân viên chuyên trách, hơn 5 triệu nhân viên kiêm chức và hơn 25 triệu tình nguyện viên có đăng ký.

Về chính trị, các TCXH là kênh quan trọng để công dân tham gia quản lý xã hội, là cầu nối chính quyền với công dân, giúp tăng cường sự tín nhiệm giữa quan chức nhà nước với dân. Các TCXH đang tích cực tác động, xúc tiến sự khoa học hoá và dân chủ hoá quá trình quyết sách của các cấp chính quyền. Gần đây nhiều TCXH cấp địa phương bắt đầu gánh vác một phần dịch vụ công cộng của chính quyền sở tại, góp phần nâng chất lượng các dịch vụ này.

Các TCXH của công dân như Tổng hội Từ thiện Trung Hoa, Quỹ Tống Khánh Linh … đã phát huy tác dụng không thể thay thế trong công tác từ thiện, xoá đói giảm nghèo, giúp người già yếu tàn tật v.v… Việc làm của các TCXH đã xúc tiến sự hoà hợp giữa dân với chính quyền. Thí dụ « Dự án Hy vọng » do Quỹ Thanh thiếu niên Trung Quốc thực hiện đã tổ chức quyên góp được nguồn kinh phí lớn, giúp hàng triệu trẻ em nghèo được đi học. Quỹ này sinh ra từ hệ thống Đoàn Thanh niên cộng sản, nhưng Đoàn không làm được việc này.

Về văn hoá, các TCXH có nhiều đóng góp về mặt xây dựng lối sống mới trật tự, vệ sinh, có văn hoá, đã tổ chức nhiều hoạt động văn hoá, thể thao ở địa phương.

Các TCXH trở thành nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết sách của chính quyền và là động lực to lớn đẩy mạnh quá trình cải cách chính trị. Ngày một nhiều TCXH, nhất là các hội đoàn nghiên cứu học thuật có tính chuyên ngành, đảm nhiệm vai trò phản biện, tư vấn cho chính quyền khi nghiên cứu chủ trương chính sách.

Các TCXH thường tham gia quá trình quyết sách của chính quyền theo những cách: 1- Phản ánh vấn đề, nêu kiến nghị, yêu cầu nhằm đưa ra chủ trương chính sách thích hợp; 2- Phản biện góp ý kiến đối với việc hoạch định và thực thi quyết sách; 3- Khi chủ trương chính sách của chính quyền gây thiệt hại cho thành viên TCXH, các tổ chức này giao thiệp với chính quyền để giải quyết.

Gần đây các TCXH Trung Quốc bắt đầu quốc tế hoá; hiện nay các TCXH có tính toàn quốc của họ đã đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo trong 122 tổ chức quốc tế, chức vụ ủy viên chấp hành trong 92 tổ chức quốc tế. Đây là một phát triển đáng chú ý của XHCD nước này.

II. Đặc điểm của xã hội công dân Trung Quốc

1. Do chính quyền chủ đạo: hầu hết các TCXH là do nhà nước lập ra và chỉ đạo, nhất là các TCXH đã đăng ký và có ảnh hưởng lớn như các tổ chức ngành nghề, đồng nghiệp, đoàn thể nghiên cứu, đoàn thể lợi ích. Tuy đảng và nhà nước cố gắng tăng cường tính tự chủ của các TCXH, quy định cán bộ lãnh đạo đảng và nhà nước không được nhận chức vụ lãnh đạo các tổ chức này nhưng trên thực tế các TCXH quan trọng đều tiếp nhận sự chỉ đạo của đảng, chính phủ. Đó là do:

  • Điều lệ đăng ký và quản lý TCXH quy định các tổ chức này phải dựa vào một ngành chủ quản là một cơ quan đảng hoặc nhà nước. Hầu hết các TCXH có ảnh hưởng lớn cho dù cuối cùng dần dần tách ra khỏi cơ quan sáng lập nhưng hai bên vẫn có quan hệ khăng khít; bên sáng lập vẫn là ngành chủ quản của TCXH đó;
  • Tuy chính phủ đã có quy định các TCXH về nguyên tắc phải tự lo kinh phí hoạt động, nhưng thực tế một số TCXH quan trọng vẫn được nhà nước cấp kinh phí, tức về tài chính vẫn ỷ lại nhà nước.

2. Môi trường cơ chế của Trung Quốc về vĩ mô tuy khuyến khích XHCD nhưng về vi mô thì vẫn hạn chế sự phát triển của XHCD. Việc đăng ký hoạt động và quản lý các TCXH còn rắc rối, thí dụ TCXH phải tiếp nhận sự quản lý của hai cơ quan chính quyền ngang cấp là cơ quan của Bộ Dân Chính và cơ quan quản lý cùng ngành.

3. So với phương Tây, các TCXH của Trung Quốc còn rất không chín muồi, chưa thể hiện rõ các tính chất tự chủ, tự nguyện, phi chính phủ; còn nặng tính quá độ, tương ứng với thực tế xã hội Trung Quốc đang ở vào thời kỳ chuyển đổi.

4. Sự phát triển các TCXH còn thiếu quy chế hoá tuy là năm 1998 Bộ Dân Chính đã ban hành Điều lệ mới về quản lý các tổ chức này. Các TCXH chưa bình đẳng như nhau về chế độ đăng ký, biên chế, mối quan hệ với cơ quan đảng, chính quyền, nguồn cung cấp tài chính,… Thí dụ các TCXH quan trọng như Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Hội Phụ nữ trên thực tế không khác gì các cơ quan hành chính nhà nước, không phải đăng ký với Bộ Dân Chính, trong khi nhiều TCXH khác như các hội học thuật, hội nghiên cứu thì phần lớn chưa có biên chế chuyên trách, người lãnh đạo do họ tự bầu lên rồi trình cơ quan chủ quản duyệt, không được hưởng chế độ cấp
bậc hành chính v.v..

5. Sự phát triển của các TCXH rất không cân đối, địa vị và ảnh hưởng trong đời sống kinh tế chính trị rất khác nhau, chủ yếu do khác nhau về nguồn lực, về cơ sở văn hoá, về thực lực kinh tế, về uy tín của người lãnh đạo

III. Phương hướng phát triển xã hội công dân ở Trung Quốc hiện nay

Tuy rằng thái độ của xã hội Trung Quốc đối với các TCXH đã từ chỗ phủ nhận và nghi ngờ tiến tới khẳng định và ủng hộ, nhưng vẫn còn không ít quan điểm lệch lạc, như cho rằng các TCXH là đối thủ tự nhiên của chính quyền, vì thế một số cán bộ chính quyền thiếu hợp tác với họ. Nhà nước chưa ban hành đầy đủ văn bản pháp quy về hoạt động của các TCXH, do đó gây khó khăn cho họ.

Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng CSTQ lần thứ XVII đề xuất: « Phát huy tác dụng tích cực của các TCXH trên mặt mở rộng sự tham gia của quần chúng, phản ánh các khiếu nại của quần chúng, tăng cường chức năng tự trị xã hội ». Sau đại hội, mối quan hệ giữa đảng và chính phủ với các TCXH dần dần chuyển biến từ kiểm soát sang giúp họ đào tạo cán bộ và khuyến khích họ hoạt động. Đề cương Kế hoạch 5 năm lần thứ XII lần đầu tiên chính thức nêu ra yêu cầu phải « tăng cường xây dựng các TCXH » – đây là một chuyển biến thực sự, quan trọng. Chính quyền các cấp bắt đầu tăng tài trợ cho các TCXH và giao cho họ bao thầu một số dịch vụ xã hội. Các nguồn tài trợ từ dân gian cho các TCXH cũng tăng dần. Tuy vậy nhìn chung nguồn lực của các tổ chức này hãy còn yếu và thiếu nhiều.

Phương hướng phát triển XHCD ở Trung Quốc hiện nay là tiếp tục thúc đẩy toàn xã hội, nhất là quan chức đảng và nhà nước các cấp, nhận thức rõ ý nghĩa chiến lược của XHCD, qua đó có thái độ khuyến khích và hợp tác với các TCXH. Cần hoàn thiện các văn bản pháp lý liên quan, một mặt quản lý các TCXH theo luật, một mặt tăng tốc nới lỏng sự kiểm soát các tổ chức đó, tăng cường giúp họ đào tạo cán bộ và khuyến khích họ hoạt động. Chính quyền các cấp cần tích cực thu hút các TCXH tham gia việc hoạch định chính sách công, phát huy tác dụng của họ trong quản lý xã hội, cố gắng thực hiện nhà nước và nhân dân cùng quản lý xã hội.

Có thể khẳng định: công dân tích cực tham gia sinh hoạt chính trị là con đường cơ bản thực hiện dân chủ; Đảng và Nhà nước Trung Quốc cố gắng không ngừng mở rộng sự tham gia chính trị một cách có trật tự của công dân; nhưng đây không phải là tham gia một cách tự phát, rời rạc mà là tham gia có tổ chức, thông qua các TCXH. Như vậy đỡ gây rắc rối và tốn kém cho chính quyền, đồng thời thể hiện được nguyện vọng của dân và càng tăng được nhiệt tình tham gia của họ. Một XHCD kiện toàn là nền tảng của chính trị dân chủ, là hậu thuẫn vững chắc cho quyền dân chủ của dân.

Trung Quốc đang tích cực xây dựng xã hội hài hoà. Mâu thuẫn lợi ích là trở ngại lớn nhất của xã hội hài hoà. XHCD là biện pháp thúc đẩy giải quyết mâu thuẫn lợi ích ấy; không có XHCD lành mạnh thì không thể có xã hội thực sự hài hoà.

XHCD phát triển là sự thách thức năng lực lãnh đạo nhà nước của Đảng CSTQ, nó đặt ra yêu cầu phải nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, trong đó có việc nâng cao hiệu suất công tác quản lý; muốn vậy cách hữu hiệu nhất là giao bớt nhiều công việc xã hội cho các TCXH quản lý.

IV. Vài nét về hoạt động nghiên cứu xã hội công dân ở Trung Quốc

Hoạt động này bắt đầu từ thập niên 80 khi các hình thái manh nha của XHCD đã hình thành và lớn mạnh dần. Tuy vậy cách đây khoảng hai chục năm, thuật ngữ XHCD vẫn bị coi là rất nhạy cảm; quan chức đảng và chính quyền, kể cả đa số học giả Trung Quốc còn chưa hiểu rõ và có thái độ hoài nghi về XHCD (tương tự tình hình ở Việt Nam hiện nay).

Mới đầu chỉ có các nghiên cứu cá nhân, từ đầu thập niên 90 lần lượt xuất hiện các tổ chức chuyên nghiên cứu XHCD, như Trung tâm XHCD ở một số trường đại học, và xuất bản các tạp chí và mở trang mạng về đề tài này.

Tác phẩm đầu tiên viết về XHCD là cuốn Xây dựng xã hội thị dân Trung Quốc xuất bản năm 1992. Tác giả cho rằng quá trình nghiên cứu XHCD ở Trung Quốc có thể chia hai giai đoạn:

  • Thời kỳ 1992-2000: nghiên cứu vấn đề Trung Quốc có tồn tại XHCD hay không; có thể xây dựng được XHCD không; mối quan hệ giữa XHCD với hiện đại hoá XHCN.
  • Từ sau năm 2000 trở đi: chú trọng nghiên cứu lý luận XHCD của các nhà xã hội học phái tả phương Tây như Gramsci, Habermas, Arato, Cohen.

Tháng 1/2009, Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh phát hành Sách Xanh về sự phát triển xã hội công dân Trung Quốc, nhận định sự hình thành XHCD là một thành tựu vĩ đại của 30 năm cải cách mở cửa.

Tháng 4/2011, Trung tâm nghiên cứu XHCD của Đại học Bắc Kinh đã tổ chức cuộc hội thảo khoa học XHCD và xã hội hài hoà, thảo luận 3 đề tài:

  • XHCD và xã hội hài hoà;
  • Mối quan hệ giữa XHCD với chính quyền;
  • Con đường tự sinh trưởng của XHCD Trung Quốc.

Cho tới nay giới học giả Trung Quốc vẫn tranh cãi nhiều về các vấn đề như: Thế nào là XHCD, Trung Quốc hiện nay có bao nhiêu TCXH, các tổ chức đó có tác dụng như thế nào, XHCD Trung Quốc có đặc điểm gì khác XHCD phương Tây, môi trường sinh tồn và phát triển của XHCD Trung Quốc v.v…

Mới đây ông Du Khả Bình Phó Cục trưởng Cục Biên dịch thuộc Trung ương Đảng CSTQ [1] nhận xét: việc nghiên cứu XHCD ở Trung Quốc đang ngày một đi vào chiều sâu cho thấy không những XHCD đã trở thành một lực lượng lớn mạnh mà việc nghiên cứu XHCD cũng đã thành phong trào, thành sức mạnh. Điều đó nói lên chân lý: bất cứ sự vật nào hợp quy luật phát triển xã hội và yêu cầu tiến bộ xã hội thì sẽ không thể nào ngăn cản được.

Hiện nay nhiều người Trung Quốc, kể cả nhà lãnh đạo và các học giả đều kêu gọi đẩy mạnh cải cách chính trị theo hướng mở rộng dân chủ, chống dân chủ hình thức. Rõ ràng việc đó sẽ tác động tích cực tới sự phát triển XHCD ở Trung Quốc.

Nguyễn Hải Hoành

[1Tiếng Anh là Central Compilation & Translation Bureau, một think tank hàng đầu của Trung ương ĐCSTQ, chuyên nghiên cứu tiếp nhận vào TQ các học thuyết chính trị tư tưởng mới; ông Đới Bỉnh Quốc được đề bạt từ Cục trưởng Cục này lên làm Ủy viên Quốc vụ, chức vụ chỉ dưới Phó Thủ tướng.