Đông Tác

Nguyễn Chí Công

Trang nhà > Bạn đọc > Nhàn đàm > Trung Quốc – « Bà già lắm tiền »

Trung Quốc – « Bà già lắm tiền »

Thứ Hai 4, Tháng Sáu 2012

Người Trung Quốc giờ đây đang phấn khởi trước dự báo năm 2025 nước họ sẽ vượt Mỹ, trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Nhưng để vượt Mỹ một cách toàn diện thì không phải dễ, chính người Trung Quốc đang ngày càng nhận ra điều đó. Mới đây ông Long Vĩnh Đồ, Thứ trưởng Bộ Ngoại thương, nguyên trưởng đoàn đàm phán WTO của Trung Quốc có kể lại chuyện ông vừa đọc trên báo Australia một bài viết nêu ra 3 câu hỏi về Trung Quốc.
Ba câu hỏi ấy chẳng khác gì gáo nước lạnh giội lên đầu ông ; đó là :

1. Đến bao giờ mới có chuyện giới tinh hoa phần lớn các nước trên thế giới đều gửi con em họ sang Trung Quốc học, chứ không gửi sang Mỹ hoặc châu Âu ?

2. Đến bao giờ mới có chuyện phần lớn dân các nước, nhất là giới trẻ, đều xem phim Trung Quốc, nghe nhạc Trung Quốc và đọc sách Trung Quốc ?

3. Đến bao giờ những người tiêu dùng trên toàn cầu khi mua hàng sẽ chọn mua hàng Trung Quốc chứ không phải hàng Mỹ hoặc châu Âu ?

Ông Long Vĩnh Đồ cho rằng 3 vấn đề này đánh trúng « chỗ hở sườn » trong sự phát triển kinh tế của Trung Quốc. Chỉ bao giờ nền kinh tế Trung Quốc phối hợp được sức mạnh mềm với sức mạnh cứng thì Trung Quốc mới thực sự có ảnh hưởng trên thế giới. Rõ ràng, sức mạnh mềm của nước này hiện nay chưa theo kịp sức mạnh cứng, cho nên nói Trung Quốc đuổi kịp hoặc vượt Mỹ vẫn là chuyện xa vời.

Lãnh tụ Singapore Lý Quang Diệu nói có một thứ Trung Quốc không bao giờ đuổi kịp Mỹ. Đó là tiếng Anh : người Mỹ dùng tiếng Anh còn người Trung Quốc thì không. Mà tiếng Anh lại là thứ ngôn ngữ chủ yếu dùng trong giao dịch kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật. (Vì thế từ thập niên 60 ông Lý đã thực thi chủ trương công dân Singapore phải biết tiếng mẹ đẻ và tiếng Anh. Mới đầu nhiều người phản đối chủ trương buộc dân phải học tiếng Anh của ông Lý, nhưng bây giờ ai cũng khen ông có tầm nhìn.)

Một nhược điểm nổi bật của Trung Quốc là quá thiếu người tài. Ai cũng biết hiện nay nước này nhất thế giới về ngoại tệ dự trữ – hơn 3 nghìn tỷ USD. Thế nhưng Trung Quốc chẳng khác gì bà già được con cái gửi cho nhiều tiền mà chẳng biết dùng tiền ấy để đầu tư vào đâu. Đã không biết chơi chứng khoán, cũng không biết kinh doanh nhà đất, lại chẳng biết buôn ngoại tệ ; rốt cuộc bà đem tiền gửi tất vào ngân hàng, dù biết rằng làm thế chỉ thiệt cho mình, lợi cho ngân hàng mà thôi. Trung Quốc bây giờ đem hơn một phần ba ngoại tệ dự trữ đi mua công trái Mỹ để hưởng chút lãi suất vài phần trăm, chỉ có lợi cho Mỹ, vì Mỹ đang thiếu tiền.

Tại sao Trung Quốc cứ khư khư ôm bọc tiền mà không đầu tư vào những vụ kinh doanh ê hề trên thị trường tài chính quốc tế, nhất là những vụ mua lại các công ty bị phá sản ?

« Chúng ta chẳng thể hôm nay mua công ty Morgan Stanley, ngày mai mua công ty Lehman Brothers ; bởi lẽ chúng ta không có nhân tài làm nổi những việc ấy ! » – ông Long Vĩnh Đồ giải thích.

Đầu tư trên thị trường tài chính là việc vô cùng khó, nếu dốt là mất hàng tỷ dollar như chơi. Năm 2009 khi công ty đầu tư Lehman Brothers xin phá sản, một số công ty lớn của Trung Quốc như Bảo hiểm Bình An, v.v… đã dự định bỏ 1,6 tỷ USD mua lại Lehman, nhưng không đi tới cùng vì sợ « hố ». Hiện nay không ít công ty lớn của Trung Quốc đang sử dụng Giám đốc điều hành (CEO) hoặc Giám đốc Tài chính (CFO) người phương Tây. Chẳng hạn Tập đoàn Máy tính lớn nhất Trung Quốc – Lenovo, năm 2005 mua lại phần sản xuất máy tính cá nhân toàn cầu của công ty IBM (Mỹ), trở thành nhà chế tạo máy tính cá nhân lớn thứ 3 toàn cầu, có doanh số hàng năm là 13 tỷ USD. Lenovo thuê một người Mỹ là ông Stephen Ward làm CEO.
Trong khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa rồi, khá nhiều công ty Trung Quốc đã sang Mỹ tìm kiếm … các chuyên gia tài chính đang bị thất nghiệp.

Long Vĩnh Đồ cũng cho biết Trung Quốc không thể dự trữ ngoại tệ bằng đồng Euro hoặc đồng dollar Australia, vì như thế rất mạo hiểm. Rốt cuộc bí quá, có đại biểu Quốc hội Trung Quốc đề nghị đem số ngoại tệ dự trữ ấy chia đều cho toàn dân !
Thiếu các chuyên gia tài chính giỏi tầm cỡ quốc tế là một nhược điểm lớn của Trung Quốc. Nhưng nước Mỹ lại có rất nhiều các nhân tài như vậy, chưa kể khoa học công nghệ Mỹ có khả năng sáng tạo đổi mới rất mạnh, vì thế trong cuộc khủng hoảng tài chính từ năm 2008 cho tới nay, nền kinh tế thực thể của Mỹ chưa bị thiệt hại gì đáng kể, trong khi kinh tế châu Âu lao đao mãi không thôi.

Tạp chí PNAS (Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America) của Viện Khoa học Quốc gia Mỹ số ra ngày 14/5 năm nay có đăng báo cáo Mức độ hài lòng với cuộc sống của Trung Quốc 1990-2010 (China’s life satisfaction, 1990-2010). Báo cáo cho biết cho dù trong 20 năm qua kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng nhưng mức độ hài lòng với cuộc sống của người dân nước này năm 2010 lại thấp hơn 20 năm trước.

Tác giả bản báo cáo nói trên là một nhóm chuyên viên do giáo sư Richard A. Easterlin ở Đại học Nam California đứng đầu. Trong 4 tác giả này có một chuyên gia Trung Quốc đại lục.

Kết luận kinh tế phát triển nhanh mà mức độ hài lòng với cuộc sống lại sút kém do bản báo cáo này đưa ra đã chứng minh tính đúng đắn của lý thuyết Kinh tế học hạnh phúc (Happiness economics), còn gọi là Nghịch lý Easterlin (Easterlin Paradox) do giáo sư Richard A. Easterlin lần đầu nêu ra năm 1974 : Khi thu nhập tăng trưởng đến một mức nào đó thì cảm giác hạnh phúc của người dân sẽ không tăng theo sự tăng trưởng thu nhập.

Theo thống kê chính thức, trong 20 năm 1990-2010, GDP bình quân đầu người Trung Quốc từ 1.644 RMB (Nhân dân tệ, 1 RMB tương đương 0,15 USD) tăng lên tới 29.748 RMB, tăng 18 lần, thế nhưng cảm giác hạnh phúc của người Trung Quốc lại kém đi. Đây là một vấn đề rất đáng suy nghĩ.

Báo cáo Easterlin tiến hành điều tra phân tích rất chi tiết, rất khoa học, có sử dụng kết quả điều tra của các tổ chức như World Values Survey, Asiabarometer, Gallup World Poll, Horizon Research Consultancy Group, Pew Research Center.

Hồ Anh Hải