Trang nhà > Lịch sử > Danh nhân > Phan Bội Châu (1867-1940)
Nhà cách mạng
Phan Bội Châu (1867-1940)
Thứ Sáu 4, Tháng Năm 2007
Nhà cách mạng đi từ bảo hoàng đến dân chủ, nhà văn yêu nước vĩ đại cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Ông sinh vào tháng Chạp năm Ðinh Mão, Tự Ðức thứ 20 (1867), tên là Văn San. Về sau, vì sợ phạm húy với Hoàng tử Vĩnh San, con vua Thành Thái, nên đổi lại là Bội Châu, có nghĩa là đeo ngọc. Ông quê ở xã Ðông Liệt, tỉnh Nghệ An, cha là Phan Văn Phổ, một nhà nho rất trọng chữ thanh cần, mẹ là Nguyễn Thị Nhàn, có tiếng là người đức hạnh.
Năm lên 3 tuổi, theo cha mẹ về ở nơi quê của nội tổ ở làng Ðan Nhiệm, tổng Xuân Liễm, huyện Nam Ðàn, được hấp thụ một nền giáo dục rất chặt chẽ của mẹ và phần lớn nhờ vào sự nghiêm khắc của cha, lúc bấy giờ làm nghề dạy học. Năm lên 6 tuổi được cho đi học, chỉ trong ba ngày thuộc hết cuốn Tam Tự Kinh. Lên 7 tuổi bắt chước Luận ngữ làm Phan tiên sinh luận ngữ, có ý mỉa mai chúng bạn nên bị cha quở phạt. Năm 1874, ở Nghệ An có phong trào Văn Thân, dù chỉ mới là một đứa bé, Phan Bội Châu noi gương Trần Quốc Toản đã tụ tập bạn bè để tập trận giả.
Năm 1885, hưởng ứng phong trào Cần Vương, Phan Bội Châu tổ chức Sĩ-tử Cần Vương đội. Dù hay chữ, Phan Bội Châu thi Hương bao nhiêu lần vẫn trượt. Sở dĩ có chuyện lạ như thế vì lối văn khoa cử xa lạ với người không chịu ép mình trong khuôn khổ của trường quy.
Nhà nghèo, ông thường làm bài mướn để lấy tiền tại trường thi. Ðã có lần vì phạm húy, ông bị bôi tên trong danh sách thí sinh trọn đời. Về sau, ông được đi thi lại nhờ sự vận động của quan Tế-Tửu Trường Quốc Tử Giám là Khiêu Năng Tĩnh, thầy học của ông. Khóa thi Hương năm Canh Tý (1900), ông thi đỗ Thủ Khoa tại trường thi Nghệ An, lúc bấy giờ đã 33 tuổi.
Năm 1901, ông có thi Hội nhưng không đỗ, ông cũng chẳng màng đến công danh nữa. Con đường cử nghiệp đối với ông chỉ là phương tiện giúp cho ông mưu đồ việc lớn, chớ chí khí của nhà cách mạng đâu lại ở khoa danh.
Tiếng tăm hay chữ và mảnh bằng Giải nguyên đã giúp ông có uy tín để bắt đầu hoạt động mạnh trong nước. Sau khi Phan Ðình Phùng mất, phong trào Cần Vương xuống dần và cơ hồ tan rã, Phan Bội Châu đã nối chí nhà lãnh đạo tiền bối, đứng ra kêu gọi dân chúng ở miền Thượng du khởi nghĩa chống Pháp.
Nhận thấy con đường cử nghiệp làm cho dân tộc yếu hèn, ông viết "Lưu cầu huyết lệ tâm thư" kêu gọi canh tân. Ông đi gặp những nhà cách mạng ở miền Trung như Ðặng Nguyên Cẩn, Ðặng Thái Thân, Trần Quý Cáp, Ngô Ðức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Nguyễn Cần, ở miền Bắc như Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Quyền, Lương Văn Can, Nguyễn Hữu Cầu, Lê Ðại, Vũ Hoành, ở miền Nam như Nguyễn Thần Hiến, Trần Chánh Chiếu, v.v. Phan Bội Châu cũng đã lên tận Yên Thế xin gặp Hoàng Hoa Thám. Đi theo đường lối Cần Vương, ông bàn với Tiểu La Nguyễn Văn Thành tôn hoàng thân Cường Ðể lên làm Hội Chủ.
Nhận thấy còn phải có sự viện trợ của ngoại bang trong việc cách mạng kháng Pháp, ông bàn với các bạn cho ông được xuất dương. Năm 1905, Phan Bội Châu xuống tàu, giả làm thương khách qua Hương Cảng rồi đến Nhật, ông đến gặp Lương Khải Siêu, người lãnh đạo công cuộc duy tân của Trung Hoa mà sau cuộc chính biến Bắc Kinh phải lưu vong sang Nhật. Tại đây, Lương Khải Siêu giới thiệu Phan Bội Châu với những vị chính khách Nhật như Bá tước Ðại Ôi và Khuyển Dương Nghị. Hai vị này khuyên ông về nước mời Cường Ðể sang Nhật. Sau đó ít lâu, ông quay lại Nhật.
Năm 1906, Cường Ðể và nhiều du học sinh sang Nhật. Phan Bội Châu lại xin cho các du học sinh vào học ở Chấn Võ Học Hiệu và Ðồng Vạn Thư Viện. Cũng trong năm ấy, nhà dân chủ Phan Chu Trinh sang Hương Cảng và Nhật. Hai nhà cách mạng họ Phan đã gặp nhau và luận bàn quốc sự. Dù Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu bất đồng ý kiến, nhưng cả hai đều rất quý mến nhau.
Cuối năm 1906, Phan Bội Châu lại về nước để dọn đường hầu chở khí giới cho Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế. Năm 1907, ông trở sang Nhật, nhưng sau khi ký thương ước với Pháp năm 1908 chính phủ Nhật đã trục xuất những nhà cách mạng Việt Nam ra khỏi lãnh thổ. Phan Bội Châu và các đồng chí phải trở lại Trung Hoa hoạt động.
Năm 1912, Phan Bội Châu qua Thái Lan một thời gian. Cũng trong năm này, cuộc cách mạng dân chủ Tân Hợi của Trung Hoa thành công. Từ Thái Lan, ông trở lại Trung Hoa, lập ra Việt Nam Quang Phục Hội, đổi chủ trương theo chính thể dân chủ. Trung Hoa Dân Quốc được thành lập, Phan Bội Châu được đốc quản tại Thượng Hải là Trần Kỳ Mỹ và đốc quản Quảng Tây là Hồ Hán Dân giúp đỡ về tài chính và tinh thần. Trong thời gian này, Phan Bội Châu giữ chức quyền Tổng lý Quang Phục Hội.
Năm 1913, nhân việc ném bom ám sát, Hội đồng Ðề Hình của thực dân Pháp xử tất cả 14 án chém, Phan Bội Châu và Cường Ðể đứng đầu sổ.
Quân lính ở tỉnh thành Quảng Ðông gây biến, Long Tế Quang đem binh đến dẹp và trở thành đô đốc Quảng Ðông. Vì ăn đút lót của thực dân Pháp, Long Tế Quang bắt Phan Bội Châu giam vào ngục. Chính trong thời gian bị giam, ông đã viết ra tập Ngục Trung Thư. Cuộc thương thuyết của Pháp và Long Tế Quang chưa xong thì chiến cuộc Âu châu bùng nổ (1914-1918). Long Tế Quang bị hạ, đảng cách mạng Trung Hoa cứu Phan Bội Châu ra khỏi ngục Quảng Châu.
Năm 1914, Phan Bội Châu lập tại Quảng Châu một cơ quan lấy tên là Tâm Tâm Xã dùng làm nơi liên lạc với những đồng chí và dự định viết sách gởi về nước để thúc giục lòng yêu nước của đồng bào và tuyên truyền tinh thần dân chủ. Tháng 3 năm ấy, được tin toàn quyền Merlin sang công cán bên Nhật, Phan Bội Châu liền triệu tập các đồng chí quyết đón đường hạ sát y. Phạm Hồng Thái được chọn thi hành việc này. Quả bom ở Sa-Ðiện nổ, tuy không giết được Merlin nhưng đã gây một tiếng vang khắp trong nước và thế giới.
Năm 1925, nghe theo lời Lý Thụy và Lâm Ðức Thụ, Phan Bội Châu gia nhập vào tổ chức Toàn thế giới bị áp bức nhược tiểu dân tộc. Rồi ông bị mật thám Pháp bắt tại Thượng Hải, giải qua Hương Cảng về Hải Phòng, sau cùng bị giam tại nhà giam Hỏa Lò, Hà Nội. Ðể tránh cho dư luận biết việc này, thực dân Pháp gắn cho ông cái tên tù quốc phạm là Trần Văn Ðức.
Hội Ðồng Ðề Hình nhóm xử ngày 25 tháng 11 năm 1925 dưới sự chủ tọa của viên chánh án Brida, Ðốc lý Hà Nội là Dupuy và đại úy Bollie làm phụ thẩm, Boyer làm bồi thẩm và Arnoux Patrick làm lục sự. Hội Ðồng Ðề Hình cử luật sư Bona ở Hà Nội và luật sư Larre ở Hải Phòng biện hộ cho Phan Bội Châu.
Trước những lời lẽ buộc tội gắt gao của Hội Ðồng Ðề Hình, Phan Bội Châu ung dung đối đáp rõ ràng để bênh vực cho hành động hợp lý và quang minh chính đại của mình.
Sau khi hay tin Phan Bội Châu bị án tử hình, phong trào vận động ân xá cho ông nổi lên rầm rộ. Hội Thanh Niên Việt Nam in ra bốn ngàn lá đơn gởi đến các cơ quan chính phủ Pháp, các sứ thần liệt quốc ở Paris, các tổ chức quốc tế yêu cầu can thiệp. Việt kiều ở Pháp họp đại hội bênh vực Phan Bội Châu, gởi điện tín kháng nghị hoặc yêu cầu tới những cơ quan có liên hệ đến vụ án này.
Trước sự công phẫn của quốc dân, ngày 24/12/1925, Toàn quyền Varenne phải đề nghị lên chính phủ Pháp để có quyết định ân xá cho nhà chí sĩ yêu nước. Sau đó, Varenne đưa Phan Bội Châu về an trí ở Huế, kỳ thật là giam lỏng ông.
Tuy nhiên, ông vẫn âm thầm nhận chức Cố vấn của Việt-Nam-Quốc Dân Ðảng. Ðã có lần V.N.Q.D.Đ định âm mưu đem ông trốn thoát ra ngoại quốc nhưng không thành vì sự dòm ngó gắt gao của thực dân Pháp.
Ngày 29/10/1940, trước giờ lâm chung, ông đã cố gắng lấy hết hơi tàn đọc lên những lời thống thiết như sau :
Nay đang lúc tử thần chờ trước cửa
Có vài lời ghi nhớ về sau
Chúc phường hậu tử tiến mau.
Phan Bội Châu viết rất nhiều với các bút danh: Hải Thu, Sào Nam, Thị Hán, Độc Tỉnh Tử… Các tác phẩm của ông gồm có:
- Phan Bội Châu niên biểu (1937- 1940)
- Xuất dương lưu biệt (1935)
- Ngục trung thư (1914)
- Trùng Quang tâm sử (1913 - 1917)
- Sào Nam thi tập
- Sùng bái giai nhân (1907)
- Việt Nam vong quốc sử (1905)
- Hải ngoại huyết thư (1906)
- Bái thạch vi huynh (1897)
- Bình Tây thu Bắc (1883)
- Song Tuất lục (1886)