Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Bạn đọc > Nhàn đàm > VỀ NGUỒN

Ngô Nhật Đăng

VỀ NGUỒN

Thứ Năm 13, Tháng Chín 2012, bởi From FB

Đầu thế kỷ 20 một bộ môn mới ra đời đó là triết sử. Dùng phương pháp đi qua huyền thoại được trợ giúp bởi các ngành như : khảo cổ, nhân chủng học, ngôn ngữ học, phân tâm học.. vv và kiểm chứng bằng các sự kiện xã hội học để tìm ra những sự thật lịch sử nằm khuất lấp dưới thời còn khuyết sử hoặc đã bị bóp méo. Giáo sư Kim Định đã đặt cho môn này cái tên là "Huyền sử".

"Nước Việt Nam ta có 4 ngàn năm Văn hiến"

Từ thế hệ tôi trở về trước câu nói này được coi như là một mệnh đề, phần lớn đều tin tưởng như vậy. Sau này nó dần bị coi như một lời khoe mẽ quá đáng, hoặc là câu để mỉa mai.

Rồi các huyền thoại dân tộc như Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Vương cũng bị đem ra chế diễu như đẻ ra trứng thì đúng là quái vật hoặc một cách tinh vi như chia 2 ngàn năm cho 18 đời vua Hùng để cho mỗi một một ông vua thọ đến vài trăm tuổi, dựng bia khắc chữ ngay tại Đền Hùng, thế là một huyền thoại mờ ảo nhưng thiêng liêng đầy tính biểu tượng bỗng hóa ra trò cười trước "khoa học". Đáng lo ngại là hình như rất ít người lo ngại về điều này. Họ cho rằng các "sử ra xã nghĩa" ngu dốt mà không nghĩ rằng đây là âm mưu xóa bỏ cội nguồn dân tộc.

Nước ta có một điều thiệt thòi là có quá ít sử sách, tư liệu, mãi đến thế kỷ 14 thì mới bắt đầu chép sử. Mọi nguồn gốc của dân tộc đều khuyết sử hoặc nằm ở vùng huyền thoại. Muốn tìm đều phải dựa vào sử sách Tàu.

Phải chăng bởi dân tộc ta không có chữ viết?

Các nhà nghiên cứu lịch sử đều nhất trí rằng Hán tộc dần dần nắm được toàn bộ Trung Hoa rộng lớn vượt lên các tộc khác nhờ vào một số điều kiện, trong đó điều kiện vô cùng quyết định là họ nắm được chữ Nho. Hán tộc dần hoàn thiện và chiếm đoạt chữ Nho biến nó thành chữ Hán. Dù các sắc dân có tiếng nói khác nhau nhưng dùng chung một thứ chữ sẽ vô cùng thuận lợi trong việc cai trị.

Vậy chữ Nho hình thành thế nào? Khi Hiên Viên sau này được tôn là Hoàng Đế vào Trung nguyên thì việc đầu tiên là sai Thương Hiệt, một người thuộc Bách Việt tổng hợp tất cả các thứ chữ đang dùng trong thiên hạ để chế ra một thứ chữ duy nhất.

Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa thì việc đầu tiên là đốt sách chôn Nho, đến đời Nhị Thế thì xảy ra "Vụ án Thạch Cừ", Nhị Thế phao tin rằng, sách vở có giá trị không bị đốt hết mà còn lưu trong Thạch Cừ Các, thư viện của Hoàng Gia. Lệnh cho các nhà căn cứ vào đó chép và in lại cho thiên hạ, việc xuyên tạc, cạo số, chiếm tác quyền bắt đầu.

Cuốn từ điển cổ nhất vào khoảng năm 90 sau Công nguyên (khoảng 300 năm sau khi Tần Thủy Hoàng chết) có ghi: "Thương Hiệt chi sơ tắc thư, ý loại tượng hình cố vị chi Văn. Kỳ hậu hình thanh tương ích, tức vị chi Tự. Tự giả ứ nhũ nhi tấm đa dã, trứ vu trúc bạch, vị chi Thư".

Nghĩa là: Kỳ thủy, khi Thương Hiệt làm ra chữ thì dựa trên hình sự vật, đó gọi là Văn. Sau đó hình và âm nương nhau đẻ ra chữ (Tự) . Chữ được viết trên thẻ tre hoặc lụa thì gọi là sách (Thư).

Như vậy chữ Nho được hình thành từ Văn đến Tự, rồi sau đó mới làm nên sách. Đầu tiên Văn tức là tượng hình là vẽ ra sự vật, đây là giai đoạn sơ khởi nên còn lơ mơ, chưa gọi được tên phải tiến thêm một đợt "thanh âm" với ý niệm đi theo hình tượng thì mới thành chữ được, thành Tự. Có những dân tộc có Văn nhưng không tiến lên được đến đợt Tự nên mãi nằm ở chữ tượng hình.

Nước ta thì sao? Văn thì chắc chắn rồi (sẽ chứng minh ở đoạn sau) nhưng Tự, chắc chắn có, bằng chứng là khi sang Việt, thì việc đầu tiên mà Sỹ Nhiếp làm là dịch sách từ chữ giờ đã được gọi là chữ Hán sang chữ Nam (Nôm?) cho dân ta học. Sử Tàu cũng chép dân Giao Chỉ thường qua Lưỡng Quảng bắt cóc người Hán về làm nô, ai biết chữ thì giá cao gấp 3 lần. Nước ta đã có Văn Tự nhưng chưa hoàn thiện thì bị xâm lăng vì thế con đường tiến tới Thư bị cắt đứt ngang chừng. Đây không phải là nhận định chủ quan, trong cuốn "The languages of China before the Chinese" ông Terrien de Lacouperie ghi rõ khi Sỹ Nhiếp mang chữ Hán vào nước ta đã cấm người Việt không được dùng chữ TƯỢNG THANH đã rất phổ biến lúc đó. Sau này ông nói rõ hơn trong cuốn: "Begenings of writing" in năm 1887.

Văn Lang, quốc hiệu đầu tiên của nước ta chính là khẳng định cái "Văn" đó, chữ Văn này cao hơn chữ Văn trong Văn Tự, khẳng định nữa trong một quốc hiệu khác là Giao Chỉ (nơi chỉ Trời và chỉ Đất giao nhau) bị xuyên tạc một cách ngớ ngẩn và tức cười là ngón chân cái mọc chẽ ra.

"Văn hiến chi bang" bốn chữ này cũng là do nước Tàu tặng nước ta. Nếu bước vào huyền sử ta mới có thể cắt nghĩa được điều này. Việt mới có Văn Miếu, Tàu chỉ có Tự Miếu, tuy Tự cao hơn Văn nhưng Văn mới là cái bắt đầu, là nguồn. 10 nơi được coi là tinh hoa văn hóa Tàu được thờ tự đều gọi là Tự Miếu, gồm cả miếu thờ Khổng Tử và Thiếu Lâm Tự. Vậy là Bách Việt mới là người khởi đầu ra chữ viết.


Ngô Nhật Đăng