Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Xã hội > Đông Á > Vì sao nước ngoài rút khỏi Trung Quốc?

Vì sao nước ngoài rút khỏi Trung Quốc?

Thứ Tư 29, Tháng Năm 2013, bởi Cong_Chi_Nguyen

Hiện tượng thoái vốn của một số ngân hàng lớn nước ngoài đang gióng lên tiếng chuông báo động cho hệ thống tài chính Trung Quốc, gắn liền với nguy cơ một cuộc khủng hoảng tín dụng khổng lồ cùng một lượng vốn lớn có thể bị rút ồ ạt.

Sau nhiều lời cảnh báo từ giới chuyên gia Mỹ về khả năng Trung Quốc có thể là một trong những tai họa lớn nhất hành tinh về đổ vỡ tài chính và không loại trừ cả vận hạn rủi ro về thể chế chính trị, làn sóng thoái vốn đầu tư đã khởi sự từ mấy năm qua.

Làn sóng thoái vốn

Chỉ mới từ đầu năm 2013 đến nay, một hiện tượng được hãng tin Bloomberg cùng nhiều chuyên gia phân tích tài chính phương Tây chú ý là 3 ngân hàng lớn Goldman Sachs, Citigroup và Bank of America đều tiến hành rút toàn bộ vốn đã đầu tư vào các ngân hàng Trung Quốc.

Goldman Sachs vừa thông báo kết thúc 7 năm đầu tư vào Ngân hàng Công thương Trung Quốc (ICBC). Ngân hàng đến từ nước Mỹ sẽ bán toàn bộ số cổ phần hiện có giá trị thị trường là 1,1 tỷ USD tại ICBC.

Như vậy, Goldman Sachs đã theo chân Citigroup và Bank of America giảm lượng cổ phần nắm giữ tại các ngân hàng Trung Quốc. Theo một chuyên gia phân tích tại công ty chứng khoán Masterlink, đây là thời điểm thích hợp để Goldman Sachs bán cổ phần tại ICBC. Trong bối cảnh Trung Quốc tiến tới tự do hóa lãi suất, lợi nhuận của các ngân hàng chắc chắn sẽ sụt giảm.

Vào tháng 3/2012, Citigroup cũng bán toàn bộ cổ phần tại ngân hàng Shanghai Pudong Development Bank sau 9 năm đầu tư vào ngân hàng này. Bank of America bán 10,4 tỷ USD cổ phiếu tại Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc hồi tháng 11/2011 và thu về lợi nhuận 1,8 tỷ USD.

Dường như thời hoàng kim của đế chế tài chính đầu tư vào Trung Hoa đại lục đã trôi qua. Sau nhiều lời cảnh báo từ giới chuyên gia Mỹ về khả năng Trung Quốc có thể là một trong những tai họa lớn nhất hành tinh về đổ vỡ tài chính và không loại trừ cả vận hạn rủi ro về thể chế chính trị, làn sóng thoái vốn đầu tư đã khởi sự từ mấy năm qua.

Vào giai đoạn 2001-2009, các định chế tài chính toàn cầu (trong đó có Temasek Holdings Pte và Citigroup) đã đầu tư tổng cộng 33 tỷ USD vào các ngân hàng Trung Quốc. Nhưng giờ đây, điều đó chỉ còn là dĩ vãng.

Mặt khác, một nghiên cứu mới đây chỉ ra rằng các cuộc bùng nổ tín dụng có xu hướng chấm dứt trong tình trạng bong bóng vỡ tung khi đi kèm với bong bóng nhà đất.

Một cuộc khủng hoảng tín dụng khổng lồ?

Từ đầu năm 2013, nhiều chuyên gia quốc tế đã đặt câu hỏi “Trung Quốc đang đứng trước một cuộc khủng hoảng tín dụng khổng lồ?”.

Trong một báo cáo được phát hành gần đây, hai chuyên gia kinh tế Edward Chancellor và Mike Monnelly của tập đoàn quản lý đầu tư GMO đã cảnh báo về sự mong manh của hệ thống tài chính của Trung Quốc. Theo họ, nhìn bên ngoài, hệ thống ngân hàng của Trung Quốc có mức nợ xấu không đáng kể, thanh khoản khá tốt và tỷ lệ đòn bẩy thấp. Tuy nhiên, người ta sẽ có một cái nhìn hoàn toàn khác nếu quan sát kỹ hơn.

Theo hai chuyên gia trên, Trung Quốc đã tạo ra quá nhiều tín dụng trong thời gian quá ngắn. Mà tất cả những gì quá nhanh đều không bền vững.

Lần bùng nổ tín dụng gần nhất diễn ra vào năm 2009, khi Trung Quốc bỏ ra 4.000 tỷ nhân dân tệ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm.

Kể từ đó đến nay, kinh tế Trung Quốc đã trở thành “con nghiện tín dụng”, nền kinh tế ngày càng cần nhiều nợ hơn để có thể tạo ra tăng trưởng. Trong giai đoạn 2007-2012, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng/GDP ở mức trên 190%, tăng hơn 60 điểm cơ bản. Năm 2012, tín dụng mới của khu vực phi tài chính có tổng giá trị là 15.500 tỷ nhân dân tệ, tương đương với 33% GDP năm 2011.

Mặt khác, một nghiên cứu mới đây chỉ ra rằng các cuộc bùng nổ tín dụng có xu hướng chấm dứt trong tình trạng bong bóng vỡ tung khi đi kèm với bong bóng nhà đất.

Ở Trung Quốc, rất nhiều khoản nợ có tài sản đảm bảo là bất động sản. Theo thống kê chính thức, tài sản đảm bảo là bất động sản chiếm tới 22%. Tuy nhiên, con số này còn chưa tính đến các khoản nợ thông qua kênh tài trợ của các chính quyền địa phương (LGFVs) và các công cụ tín dụng không nằm trong bảng cân đối kế toán của các ngân hàng.

Giá bất động sản đột ngột sụt giảm đã đẩy tỷ lệ nợ xấu tăng vọt. Gần tương tự như Việt Nam, đã chưa hề có một con số minh bạch nào về nợ xấu ở Trung Quốc. Tất cả những gì mà thế giới biết về nợ xấu của đất nước hay giấu giếm này là qua những tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế như Moody’s, Credit Suisse và Fitch Ratings.

Hiện thời, rủi ro đạo đức đang bị xem là vấn đề rất lớn của hệ thống ngân hàng Trung Quốc. Nguyên nhân là do nhà nước không chỉ quản lý các ngân hàng lớn nhất mà còn quản lý cả các doanh nghiệp nhà nước (vốn là bộ phận vay nợ nhiều). Cơ cấu tổ chức như trên gây nên nhiều gian lận và tạo điều kiện để các khoản nợ dễ dàng được che giấu.

Thêm vào đó, vì các chính quyền địa phương không thể vay mượn trực tiếp từ các ngân hàng, họ phải tạo ra các công cụ tài trợ của chính quyền địa phương (LGFVs). Các công cụ này chiếm khoảng 15-25% số nợ xấu và thường có tài sản đảm bảo là bất động sản (thường được định giá cao hơn giá thị trường).

Vốn sẽ bị rút ồ ạt?

Trong thời gian gần đây, đặc biệt là khi chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tín dụng, hệ thống tín dụng đen của Trung Quốc đã bùng nổ mạnh mẽ, nhất là ở các sản phẩm quản lý tài sản. Trong quý IV/2012, hoạt động cho vay phi ngân hàng chiếm tới 60% tổng số tín dụng mới được cấp.

Điều này khiến người ta nhớ lại những gì đã diễn ra ở nước Mỹ trước khi Lehman Brothers sụp đổ. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tín dụng ở Ôn Châu và một số thành phố lớn của Trung Quốc vào cuối năm 2011 nổ ra với nguyên nhân chính là hệ thống bảo lãnh sụp đổ và khi đó các công ty bảo lãnh phải nhận cứu trợ từ chính phủ.

Do có thặng dư thương mại và luồng vốn ồ ạt đổ vào trong suốt thập kỷ vừa qua, Trung Quốc đã phải in thêm nhân dân tệ để có thể kiểm soát giá trị của đồng nội tệ. Hệ quả tất yếu là hoạt động cho vay bùng nổ.

Thêm vào đó, nhóm những người giàu nhất Trung Quốc kiểm soát tới 2/3 lượng dự trữ ngoại hối của nước này trong khi ngày càng có nhiều lý do khiến họ chuyển tiền ra nước ngoài. Nếu bộ phận này quyết định chuyển phần lớn tài sản của họ ra khỏi Trung Quốc, chắc chắn hệ thống ngân hàng sẽ bị cạn tiền và lung lay.

Điều không khó dự đoán là khả năng rút vốn và cạn kiệt thanh khoản trên là có thể xảy ra chỉ trong vài ba năm tới. Dù nhiều chính sách ngăn chặn đã được Chính phủ Trung quốc tung ra, nhưng xem ra tốc độ cải cách vẫn quá chậm so với thực tồn kinh tế và những mâu thuẫn xã hội đang tiến triển với gia tốc ghê gớm.

Việt Thắng (SM)