Văn học Nhật Bản:
Ishikawa Takuboku (1886-1912)
Nhà thơ Nhật Bản
NhậtTiểu sử
Ishikawa Takuboku (20/2/1886 - 13/4/1912) tên Hán Việt là Thạch Xuyên Trác Mộc (石川啄木). Tên thật của ông là Hajime.
Ishikawa Takuboku sinh tại ngôi đền Joko thuộc thôn Hinoto (nay là Hinoto, phường Tamayama), quận Iwate, thủ phủ tỉnh Ittei. Cha ông là thầy tế của đền Joko và mẹ ông tên là Katsu. Năm 1887 ông chuyển tới thôn Shibutami (nay là Shibutami, phường Tamayama).
Năm 1891 ông học ở trường tiểu học Shibutami (4 năm). Năm 1895 ông học trường cao đẳng tiểu học Morioka (2 năm). Năm 1898, ông học trung học cơ sở ở Morioka.
Năm 1899 ông xuất bản một tập sách văn học là “Choiji-kai” (Đinh Nhị Hội) được in thủ công. Năm 1900 tự thành lập một nhóm tự học tên “Liên minh hội” để học tiếng Anh. Số thứ nhất và số thứ hai của tạp chí Choiji được in ra. Ông có cảm tình với một cô gái tên Setsuko Horiai học ở Trường nữ sinh Morioka.
Năm 1901 ông xuất bản tập thứ 3 của “Mikazuki” (Trăng khuyết), một tạp chí được in định kì, và tập thứ nhất “Nigitama”. Các bài thơ Tanka của Ishikawa Takuboku xuất hiện trên báo Iwate Nippo dưới bút danh “Suiko”, thơ ông lần đầu tiên được ra mắt với giới truyền thông.
Năm 1902 dưới bút danh "Hakuhin" các bài thơ Tanka của ông xuất hiện trên tạp chí "Myōjō", một tạp chí văn học. Ông rời trường trung học Morioka vì sự nghiệp thơ của mình. Ông đã đến Tokyo và làm quen với Tekkan và Akiko Yosano.
Năm 1903 ông quay về Shibutami. Các bài thơ có tựa "Tư tưởng của Wagner" được in trên báo Iwate Nippo. Bài thơ "Shucho" (giai điệu buồn) được in trên tạp chí "Myōjō". Bút danh "Takuboku" được sử dụng lần đầu tiên. Tháng mười một, ông tham gia đảng "Shinshisha".
Năm 1904 một serie với tựa là “Senun Yoroku” (bản báo cáo thời chiến) được in trên báo Iwate Nippo, ngay sau khi chiến tranh Nga-Nhật bùng nổ. Năm 1905 bộ sưu tập thơ đầu tiên của ông với tựa “Akogare” (ngưỡng mộ) được Odajima Shobo xuất bản. Ishikawa Takuboku kết hôn với Setsuko Horiai. Xuất bản tạp chí văn học "Sho-Tenchi" (thế giới nhỏ).
Năm 1906 ông trở thành giáo viên dạy thế tại trường tiểu học Shibutami. Ông viết cuốn tiểu thuyết "Kumo wa Tensai dearu" (những đám mây là những nhà thiên tài), nhưng không được xuất bản khi ông còn sống. Cuốn tiểu thuyết "Soretsu" (đoàn người đưa tang) xuất hiện trên tạp chí văn học "Myōjō" (số Tháng Mười Hai năm 1906).
Năm 1907 ông trở thành giáo viên dạy thế tại trường cao đẳng tiểu học Hakodate Yayoi, và là phóng viên tự do cho báo Hokodate Nichinichi Shinbun. Tại trường tiểu học Hakodate Yayoi, ông đã gặp Tachibana Chieko, người mà ngay lập tức đã thu hút ông bởi sắc đẹp của bà. Mặc dù ông chỉ gặp Tachibana Chieko hai lần nhưng bà đã để lại một ấn tượng sâu sắc và lâu dài cho ông, và đoạn thứ 22 của bài tanka viết trong "Wasuregataki Hitobito" ở tập "Ichiaku-không-Suna" là viết về Tachibana Chieko. Sau đó, bất chấp những nỗ lực để gặp Chieko tại nhà của bà ở Sapporo, ông đã bị bố bà từ chối và bảo rằng bà đã kết hôn. Do hỏa hoạn ở Hakodate, ông bị mất cả hai công việc và đành rời Hakodate. Ông làm việc tại những nơi như Hokumon Shinpo, Otaru Nippo (nhà xuất bản của các tờ báo).
Năm 1908 ông làm việc cho báo Kushiro Shinbun, ông viết bài "Benifude dayori". Mùa xuân, ông chuyển đến Hongo, Tokyo. Năm 1909 ông làm tại tòa báo Asahi Shinbun như là một người kiểm tra lại các bài báo trước khi in. Phát hành tạp chí văn học "Subaru" như một nhà xuất bản.
Năm 1910 bộ sưu tập thơ tanka đầu tiên của ông "Ichiaku-no-Suna" (một nắm cát) được Shinonome Do Shoten xuất bản. Năm 1911 ông chuyển đến Koishikawa vì lý do sức khỏe.
Tháng 3 năm 1912 mẹ ông qua đời. Chính ông cũng đã mất vì bệnh lao vào ngày 13 tháng 4, ông được sự chăm sóc của người bạn Wakayama Bokusui và vợ ông Setsuko, ở tuổi 27. Sau khi ông qua đời, bộ sưu tập Tanka thứ hai là "Kanashiki Gangu" (món đồ chơi đáng thương) đã được Shinonome Do Shoten xuất bản. Tháng 8 năm 1926 mộ ông được Ikuu Miyazaki, người anh họ, cũng là nhà thơ, và Okada Kenzo, viện trưởng thư viện Hakodate xây đắp.
Năm 1988 vành đai tiểu hành tinh 4672 Takuboku (1988 HB) được đặt theo tên ông để vinh danh những đóng góp của ông cho nền thơ Nhật Bản. Các tác phẩm của ông đã được dịch sang tiếng Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Tác phẩm
Thơ năm câu
1
Tôi không hiểu vì sao
Tôi cứ mãi ước mơ
Được đi trên tàu hoả
Để đến lúc rời tàu bước xuống
Thì không biết về đâu!
(Bằng Việt dịch)
2
Giọt nước mắt rơi nhẹ tênh
Làm ướt đẫm hạt cát
Hạt cát mong manh sống dậy
Mà giọt nước mắt tình cờ kia
Chẳng biết mình nặng đến ngần nào!
(Bằng Việt dịch)
Nơi giọt nước mắt
Vừa rơi
Đã thành một viên cát ướt
Ôi, bây giờ ngươi nặng sao
Nước mắt!
(Thái Bá Tân dịch)
3
Trên trời xanh
Một ngọn khói tan đi
Ngọn khói tan tan cô đơn lặng lẽ
Ngọn khói giống điều gì nhỉ
Hay là giống hệt đời mình!
(Bằng Việt dịch)
4
Ánh trời tinh khiết đầu thu
Dòng nước long lanh trong vắt
Tưởng ngụp mình vào đó
Mọi ý nghĩ cũ rồi
Đều sẽ khác hôm qua
(Bằng Việt dịch)
Đầu thu
Nước sạch và trong
Các ý nghĩ tắm xong
Bước lên
Lại hoàn toàn mới mẻ
(Thái Bá Tân dịch)
5
Lại được trở về quê
Làng cũ yêu thương ruột thịt
Có gì trong mình lạ quá
Gót chân thì như bấc
Trái tim thì như chì
(Bằng Việt dịch)
Tôi lại đi
Trên đất làng thân yêu của tôi
Đôi chân bây giờ rất nhẹ
Nhưng trái tim
Trái tim tôi không thế
(Thái Bá Tân dịch)
6
Một hôm khi tôi cũng đói
Ve vẩy chiếc đuôi gầy
Con chó đói lại gần tôi, ghếch mõm
Như chìa tay
Và tôi thấy lòng nhẹ hơn một tí
(Thái Bá Tân dịch)
7
Giống như từ lâu lắm
Được gặp người quen quá đỗi thân tình
Tưởng đã quên mà day dứt không quên
Ấy là khi tôi bất ngờ được nghe
Tiếng dập dờn sóng vỗ
(Bằng Việt dịch)
Nguồn dịch từ tiếng Nga:
1. Thơ dịch Thái Bá Tân, NXB Lao động, 2001
2. Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX, Bằng Việt, NXB Văn học, 2005