Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Hà Nội > Nhân vật > Hồ Xuân Hương (?1772-?1822)

Hồ Xuân Hương (?1772-?1822)

Bà chúa thơ Nôm, biểu tượng quyền phụ nữ

Chủ Nhật 21, Tháng Giêng 2007, bởi Kim Thanh

Quê cha ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, quê mẹ ở Hải Dương, nhưng thuở nhỏ và cuối đời, bà học và sống tại phường Khán Xuân, vùng Hồ Tây, Hà Nội. Hồ Xuân Hương từng làm lẽ ông Tri phủ Vĩnh Tường, rồi lại làm thiếp ông Cai tổng Cóc, cả hai ông đều mệnh bạc. Cuối đời, bà trở lại phường Khán Xuân, dựng một ngôi nhà nhỏ trông ra Hồ Tây, gọi là Cổ Nguyệt Đường. Ngoài năm sinh năm mất cũng còn một câu hỏi về tác giả của các bài thơ gán cho bà: có một hay nhiều Hồ Xuân Hương?

Tương truyền bà để lại khá nhiều tập thơ, nhưng hiện chỉ còn có tập "Lưu hương ký" gồm 28 bài thơ Nôm, 6 bài thơ Hán và một số văn chữ Hán, bên cạnh 8 bài thơ Hán vịnh Đồ Sơn. Công chúng đón nhận thơ Nôm của Hồ Xuân Hương đến mức dân gian hóa, làm tăng lên nhiều số lượng bài thơ được gán cho bà là tác giả. Ngôn ngữ thơ của bà như được đẽo gọt, vừa thanh vừa tục, ý tứ lúc sang trọng lúc đáo để và cách ví von thì rất tài tình. Thơ bà hầu hết phê phán hoặc bỡn cợt không kiêng kỵ mọi đẳng cấp thuộc giới mày râu và thường dùng những vần hiểm hóc nên ít người họa nổi.

Về sau một số bài thơ của bà đã được dịch sang tiếng Pháp rồi cả tiếng Anh.

Vì đã có 3 biên khảo riêng trên kia nên ở đây chỉ đơn cử một vài thi phẩm ít được cho là của Hồ Xuân Hương:

Hỏi trăng

Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn.
Hỏi con bạch thố đà bao tuổi,
Hở chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm tối cớ chi soi gác tía?
Ngày xanh còn thẹn với vừng son.
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng với nước non?

Đồng tiền hoẻn

Cũng lò, cũng bễ, cũng cùng than,
Mở mặt vuông tròn với thế gian.
Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,
Đủ đồng ắt cũng đóng nên quan.

Tự tình

Vất vất vơ vơ cũng nực cười
Căm căm cúi cúi có hơn ai
Nay còn chị chị anh anh đó
Mai đã ông ông mụ mụ rồi
Đói đói no no lo hết kiếp
Khôn khôn dại dại khéo trò đời
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi

Khóc thầy lang

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì ?
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti.
Ngọt bùi, thiếp nhớ mùi cam thảo,
Cay đắng, chàng quên vị quế chi.
Thạch nhũ, trần bì, sao để lại,
Quy thân, liên nhục, tẩm mang đi.
Dao cầu, thiếp biết trao ai nhỉ ?
Sinh ký, chàng ơi, tử tắc quy.

Già kén kẹn hom

Bụng làm dạ chịu trách chi ai,
Già kén kẹn hom ví chẳng sai.
Tiếc đĩa hồng ngâm cho chuột vọc,
Thừa mâm bánh ngọt để ngâu vầy.
Miệng khôn trôn dại đừng than phận,
Bụng ỏng lưng eo chớ trách trời!
Đừng đứng núi này trông núi nọ,
Đói lòng nên mới phải ăn khoai.