Trang nhà > Khoa học > Ngôn ngữ > VẤN ĐỀ ĐA ÂM TRONG CHỮ HÁN
Nguyễn Hải Hoành
VẤN ĐỀ ĐA ÂM TRONG CHỮ HÁN
Thứ Sáu 4, Tháng Mười 2024, bởi
Âm đọc chữ Hán là một trong những vấn đề rắc rối nhất của Hán ngữ, nhiều chữ Hán trong hàng nghìn năm tồn tại không có âm đọc xác định. Nguyên nhân do chữ Hán thuộc loại chữ biểu ý, không có tính năng biểu âm, chữ viết tách rời tiếng nói, thời xưa không có ký hiệu ghi chính xác âm đọc chữ Hán cho nên không thể biết âm đọc chữ. Ngoài ra, người Trung Quốc vùng nào nói phương ngữ vùng ấy. Hậu quả là tuy cả nước có một hệ thống chữ viết thống nhất nhưng lại không có một tiếng nói thống nhất. Vấn đề âm đọc chữ Hán không được coi trọng.
Cuối thế kỷ XIX, do chịu ảnh hưởng của cuộc Duy Tân Minh Trị ở Nhật, người Trung Quốc mới chú ý vấn đề thống nhất âm đọc của tiếng nói quốc dân (sau này gọi là “Tiếng Phổ thông”), yêu cầu tiếng nói quốc dân phải có tiêu chuẩn quốc gia rõ ràng, chính xác về ngữ âm. Năm 1913, Chính phủ bắt đầu tiến hành thẩm định âm đọc chữ Hán, sau hơn một tháng, thẩm định được hơn 6500 chữ. Sau đó thông qua phương án “Chú âm tự mẫu”, được dùng làm ký hiệu ghi chú âm đọc chữ Hán. Tháng 9/1919 xuất bản “Quốc âm Tự điển” gồm hơn 13 nghìn chữ đã xác định âm đọc, mỗi chữ đều có ghi chú âm đọc bằng “Chú âm tự mẫu”. Trong nửa sau thế kỷ XX, Nhà nước và giới học giả Trung Quốc đã ra sức nghiên cứu giải quyết các rắc rối về ngữ âm Hán ngữ. Nhưng do nhiều nguyên nhân, đến cuối thế kỷ XX vẫn có gần một nửa số người Trung Quốc đại lục tuy biết chữ Hán mà không biết nói tiếng Phổ thông, nghĩa là chưa biết đọc âm tiêu chuẩn của chữ Hán.
Như đã biết, chữ viết lý tưởng là mỗi chữ hoặc mỗi đơn từ (word) chỉ có duy nhất một âm đọc. Trong thực tế, một số hệ thống chữ viết trên thế giới có hiện tượng Chữ/Từ đa âm . Một chữ/từ có 2 hoặc hơn 2 âm đọc thì gọi là chữ/từ đa âm; cùng một chữ/từ mà đọc với âm khác nhau thì chữ/từ đó có ý nghĩa khác nhau, cách dùng chữ/từ cũng khác nhau, tính chất từ vựng cũng thường là khác nhau. Vì thế chữ/từ đa âm còn gọi là Chữ/Từ đa âm đa nghĩa (Polyphonic and polysemous words). Chữ Quốc ngữ tiếng Việt không có từ đa âm đa nghĩa, tuy có từ đa nghĩa. Chữ tiếng Anh có một ít từ đa âm đa nghĩa, ví dụ “read” có thể đọc [ri:d] hoặc [red].
Chữ Hán có nhiều chữ đa âm đa nghĩa, người Trung Quốc gọi tắt là Chữ đa âm. Bình quân khoảng 10% chữ Hán là chữ đa âm; trong 2000 chữ Hán thường dùng (Everyday words) có tới 334 chữ đa âm (17%); “Tân Hoa Tự điển” bình quân có hơn 8000 chữ Hán, trong đó hơn 600 là chữ đa âm. Cá biệt chữ 和 có 5 âm đọc khác nhau: [hé], [hè], [hú], [huó], [huò]. Chữ đa âm gây nhiều khó khăn cho người học và dùng chữ Hán. Khi gặp chữ đa âm, người chưa học sẽ đọc sai hoặc không biết nên đọc như thế nào, vì vậy sẽ không biết ý nghĩa và cách dùng chữ ấy. Đặc biệt rắc rối khi gặp những chữ đa âm là tên người, tên đất, là những chữ/từ đòi hỏi âm đọc chính xác, mà lại không biết nên đọc ra sao, cho dù tra tự điển cũng vô ích.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nhu cầu làm ra chữ Hán đa âm. Nguyên nhân chủ yếu là nhằm giảm bớt tình trạng tạo chữ mới. Hệ thống chữ Hán vốn đã có quá nhiều chữ, vượt quá khả năng ghi nhớ của bộ óc người bình thường; vì thế tạo chữ mới là điều tối kỵ. Thế nhưng đời sống xã hội luôn phát triển lại đòi hỏi phải tạo chữ mới. Để giải quyết mâu thuẫn này, người ta nghĩ ra cách dùng lại chữ đã có nhưng gán cho nó một âm đọc mới kèm ý nghĩa mới, thời xưa gọi là 破读 “Phá độc” (tức đọc phá âm cũ đi). Cách này tạo ra âm mới và ý nghĩa mới của chữ cũ. Ví dụ khi chữ 朝 biểu thị nghĩa “buổi sáng” thì đọc [zhao]; khi 朝 biểu thị ý nghĩa “triều đình” thì đọc [cháo]. Cách này cũng dùng để phân biệt tính chất của từ vựng. Ví dụ khi 好 là tính từ thì đọc [hǎo] (tốt), khi 好là động từ thì đọc [hào] (ưa thích). Nhưng cách này lại dễ gây ra tình trạng đọc sai chữ. Nguyên nhân thứ hai là do giữ lại âm đọc cổ. Ví dụ chữ 番 hiện nay đọc [fan], nhưng trong địa danh 番禺 (“Phiên Ngu”, nay gọi là Quảng Châu) thời cổ 番 đọc [pan], làm cho 番 có 2 âm [fan] và [pan]. Nguyên nhân thứ ba là sự tồn tại âm của phương ngữ. Ví dụ chữ 拆 tiếng Phổ thông đọc [chai], do hấp thu phương ngữ Ngô mà đọc [ca], làm cho 拆 có 2 âm. Nguyên nhân thứ tư: cùng một chữ, khi nói thì đọc âm văn nói (âm khẩu ngữ), khi viết trong văn bản thì đọc âm văn viết. Ví dụ chữ 血 (“huyết”) trong văn viết đọc [xuè], trong văn nói lại đọc [xiě], thật phức tạp.
Có mấy cách dùng chữ đa âm như sau:
1- Trường hợp âm đọc có tác dụng phân biệt tính chất từ và ý nghĩa từ. Trong văn Văn ngôn. loại chữ đa âm kiểu này gọi là 破音异读 “Phá âm dị độc”, chiếm khoảng 80% toàn bộ số chữ đa âm. Đối với loại chữ đa âm này ta phải dựa vào âm đọc để phân biệt và ghi nhớ. Ví dụ chữ 將 khi đọc [jiang] nó có thể làm động từ hoặc phó từ. Khi làm động từ, nó có ý nghĩa “dẫn dắt, dẫn đầu”; khi làm phó từ, có ý nghĩa “sẽ”, “sắp sửa” (tương lai). Trường hợp 將 đọc [jiàng], nó làm danh từ với ý nghĩa “tướng soái” “tướng lĩnh”. Có tài liệu nói 將 còn có âm đọc [qiang], được dùng làm động từ với nghĩa “muốn”, “xin”.
2- Trường hợp sử dụng khác nhau thì âm đọc cũng khác nhau, khi đó âm đọc có tác dụng phân biệt cách dùng chữ. Ví dụ chữ 薄 khi đọc [báo] có nghĩa là “mỏng”; khi ấy chữ 薄 được dùng đơn lẻ, như 薄纸 (giấy mỏng). Khi đọc [bó] thì dùng trong từ hợp thành, như 薄礼 (lễ vật nhỏ). Khi 薄 đọc [bò]: dùng trong danh từ như 薄荷 (“bạc hà”).
Ngoài ra còn một số trường hợp khác, ở đây miễn trình bày.
Âm đọc của chữ đa âm có tác dụng phân biệt tính chất từ vựng và ý nghĩa từ vựng. Trong văn Văn ngôn, người ta dùng khái niệm “Phá âm dị độc” để thể hiện tác dụng ấy. Đây là một hiện tượng ngữ pháp dùng cách thay đổi âm đọc thông thường của chữ Hán để biểu thị sự khác nhau về tính chất từ và ý nghĩa từ. Ví dụ chữ 雨 (“vũ”) khi là danh từ, tức “cơn mưa” thì đọc [yǔ] (là cách đọc thông thường của chữ này); khi đọc [yù] thì 雨 là động từ, tức “mưa rơi”, nghĩa là đổi âm đọc sẽ đổi được tính chất từ vựng và ý nghĩa của chữ 雨 (như 不雨 là không mưa). Hoặc chữ 王 “vương”, vốn là danh từ (chức danh “vua”), khi ấy đọc [wáng]; khi 王 dùng làm động từ (“xưng vua”, “thống trị”) thì đọc [wàng]. Những người học và dùng cổ văn đều phải nắm được khái niệm “Phá âm dị độc”.
Ngoài hiện tượng chữ đa âm đa nghĩa, trong Hán ngữ còn tồn tại hiện tượng Chữ đọc khác (异读字 “Dị độc tự”), nghĩa là cùng một chữ Hán, ý nghĩa của chữ không thay đổi nhưng có 2 (hoặc hơn 2) âm đọc khác nhau. Ví dụ chữ 贼 “tặc” có 2 âm đọc là [zéi] và [zé]; chữ 肉 “nhục”) có 2 âm đọc là [ròu] và [rù], ý nghĩa như nhau. Rõ ràng, chữ đọc khác làm cho chữ Hán trở nên phức tạp, thiếu chuẩn hóa.
Giới ngôn ngữ học Trung Quốc hiện nay đang làm tiếp công tác xác định âm đọc tiêu chuẩn cho chữ Hán, gọi là công tác 定音 “Định âm”, trong đó có vấn đề giảm bớt chữ đa âm đa nghĩa và bãi bỏ chữ đọc khác, nhằm chuẩn hóa chữ viết và tiếng nói, giảm khó khăn cho người học và dùng chữ Hán. Ví dụ chữ 贼 từ nay chỉ đọc một âm [zéi], chữ 肉 chỉ đọc một âm [ròu].
Nguyễn Hải Hoành