Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Văn chương > Nước ngoài > Fedor Aleksandrovich Abramov (1920-1983)

Văn học Nga

Fedor Aleksandrovich Abramov (1920-1983)

Nhà văn Nga

Thứ Năm 10, Tháng Mười 2013

Tiểu sử

Fedor Aleksandrovich Abramov (Федор Александрович Абрамов, 1920-1983) là nhà văn, nhà phê bình văn học Nga. Ông sinh ở Arkhangelsk và mất ở Leningrad. Đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1945. Các tác phẩm: "Hai chị em" (tiểu thuyết, 1958); "Ngôi nhà" (tiểu thuyết, 1978) v.v...

Tác phẩm

Câu chuyện về một con chó

Trước chiến tranh, họa sĩ Pyotr Petrovich và vợ là Elena Arkadyevna sống ở Leningrad. Và cùng với họ là Đác, một con chó dobermann pinscher lông đen tuyệt đẹp.

Hai vợ chồng rất quý Đác, một con chó hết sức thông minh và tốt bụng, thêm vào đó lại vô cùng trung thành, tận tụy.

Buổi sáng, Pyotr Petrovich vừa mở mắt ra thì Đác đã ngoạm sẵn trong mõm một chiếc dép. Pyotr Petrovich với tay lấy hộp thuốc lá, tức thì con chó mang bao diêm tới cho anh. Và khi Pyotr Petrovich cầm bút vẽ lên, con chó ngồi im thít, nín thở, đờ người ra vẻ mãn nguyện hoàn toàn. Và Pyotr Petrovich, vốn không thuộc số các họa sĩ đang được chuộng, thở dài: "A! Giá mà nghệ thuật cũng được những người phải chăm lo cho nó thưởng thức như vậy! Chúng ta sẽ vươn tới những đỉnh cao như thế nào!".

Chỉ cần một lời đủ để đánh giá thái độ của Đác đối với Elena Arkadyevna: con chó cư xử với chị hệt như một công tử hào hoa, lịch thiệp. Một "công tử" mà ngày nay chúng ta không mấy khi gặp trong cánh đàn ông! Giả dụ, chị từ cửa hàng hoặc từ chợ về. Liệu nó có để cho chị xách túi không? Không đời nào! Chiếc túi nhẹ hơn cặp giữa hai hàm răng, còn chiếc kia thì nó cho lên lưng. Và nó bước đi dứt khoát khiến cho người qua đường phải thèm thuồng thán phục, duyên dáng kết hợp từng động tác nhịp nhàng của hai cặp chân nhỏ nhưng căng bắp, khoé màu hạt dẻ, thân hình hơi có vẻ nặng nề do được ăn tốt, nhưng vẫn còn đỏm dáng, gọn gàng, lớp da mềm mại với lượt lông bóng mượt có những đốm hung đỏ mà người ta dễ tưởng là được nhồi đầy than nóng bỏng.

Cách cư xử mà Đác áp dụng trong quan hệ với đám người thân quen của gia đình lại khác hẳn. Theo xã giao và phép lịch sự — hẳn rồi, nhưng hoàn toàn không phải theo kiểu làm bộ làm tịch mà một số bà thường thích mê một cách thái quá.

Căn nhà mở cửa suốt ngày và không thiếu những khách ra vào, và điều đó không làm cho Đác thích thú chút nào.

Còn khi ông bà chủ không có nhà, Đác cũng không vì thế mà lúng túng. Nó để cho khách vào nhà, nhưng không bao giờ để cho ra. Và khách tự biết là đành phải đợi cho đến khi chủ nhà về. Còn nếu ai tỏ ra bướng bỉnh hoặc có ý cưỡng lại, Đác xoài người ra trên ngưỡng cửa, và từ trong họng con vật phát ra những tiếng gầm gừ khiến cho kẻ đột nhập phải thuần phục tức khắc.

Thế nhưng cũng có những vị khách mà Đác sẵn lòng chấp nhận: ấy là lũ trẻ. Chúng được phép làm những gì chúng muốn: vuốt ve, vỗ về và thậm chí cưỡi lên nó. Thực ra những trò đó không làm Đác thích thú cho lắm, song nó chấp thuận cuộc chơi. Nó chấp thuận điều đó, răng nghiến chặt, vì một lẽ là chủ của nó rất yêu trẻ, nhưng lại không có con. Và, sau nữa, nó cũng là một đứa trẻ đó thôi.

Đác còn có một điểm yếu khác. Nó ăn khỏe, và chính vì quá nặng cân mà con chó cực kỳ thông minh và tốt bụng này không được nhận trong các cuộc triển lãm chó.

Vào mùa hè xảy ra câu chuyện mà chúng ta nói đến sau đây, Đác vừa tròn mười tuổi, và đấy là dịp để Pyotr Petrovich và Elena Arkadyevna tổ chức một bữa tiệc mừng.

Bữa tiệc mà đáng lý ra phải có đủ loại bánh kem mà con chó rất thích ấy, được ấn định vào ngày chủ nhật. Đúng cái ngày chủ nhật chiến tranh ập xuống các gia đình Xôviết. Có cần tôi phải nói ra là bữa tiệc đã không được tổ chức nữa không?

Là quân nhân phục viên, Pyotr Petrovich không phải tái ngũ, nhưng vào thời buổi như lúc bấy giờ, một người như anh không thể ngồi yên ở nhà.

Anh tham gia vào các công việc phòng thủ, và Đác đi theo anh: không một sự nài nỉ, không một lời dọa dẫm nào có thể giữ được nó ở lại nhà.

Đác không phải đào bới suốt từ sáng đến tối trên những lớp cát nóng rẫy, không phải cuốc đất khô nẻ và rắn lại như đá vì nắng nóng, không phải oằn lưng đẩy những chiếc xe trĩu nặng, nhưng nó cũng xây tuyến phòng thủ như ai, vì sự hiện diện của nó ở đây, kề ngay bên cái địa ngục của lửa và thép này, cùng với cái dáng chải chuốt, vẻ đẹp và thái độ lạc quan của nó, đã xua đi mọi nỗi nhọc mệt, đem tới sự gan góc và lòng tin tưởng cho mọi người.

Còn Pyotr Petrovich? Cái anh chàng Pyotr Petrovich lúc nào cũng co ro và ốm yếu ấy, liệu sẽ ra sao nếu thiếu người bạn tận tụy kia?

Người ta ngủ ngay ngoài trời, trên khu đất đang làm, và màn đêm buông xuống lạnh giá khiến cho răng cứ va vào nhau lập cập đến tận sáng. Nhưng Đác vẫn ở đấy, và để sưởi ấm giấc ngủ, Pyotr Petrovich chỉ cần nằm dựa vào mạng sườn mềm mại và nóng hổi của nó.

Mùa thu, nạn đói giáng xuống thành phố bị phong tỏa. Đối với Pyotr Petrovich và Elena Arkadyevna, điều đó lại càng khủng khiếp, vì Đác không nhận được phiếu khẩu phần.

Các bạn họ đều cùng chung một ý kiến: cần phải chia tay với Đác. Nuôi một con chó trong hoàn cảnh như thế này thì thật là điên rồ.Nhưng Pyotr Petrovich không muốn nghe một tí nào. Phản bội lại một người bạn trong cảnh khốn cùng, thì sau đấy anh làm sao có thể sống được?

Một buổi tối, Pyotr Petrovich dắt Đác đi dạo quanh khu nhà. Tuyết bắt đầu rơi và trời lạnh cắt da cắt thịt. Mặc dù mặc ních vào người rất nhiều quần áo, Pyotr Petrovich vẫn run lên vì rét. Để tự sưởi ấm, anh định bụng sẽ chạy từ từ, nhưng đôi chân sưng tấy cứ nặng như chì.

Trên đường về, đúng lúc tới trước cổng nhà, có hai kẻ nào đó đã tấn công họ. Chắc chắn là chúng nhằm vào con chó, vì Pyotr Petrovich không thể mang lại cho chúng một món lợi nào. Chúng chỉ xô ngã anh, và trong lúc anh đã ngã, hai gã đàn ông gắng gổ chụp lưới bắt Đác.

Trong một khoảng không chật chội, Đác đã đánh tan tác hai kẻ vụng về lẻo khoẻo kia, và chắc chắn là vận rủi sẽ chuyển xoay về chúng nếu như Pyotr Petrovich không ra lệnh cho con chó dừng lại.

Sau sự việc rủi ro này, anh không dám cho Đác ra khỏi nhà nữa. Vả lại, anh cũng không còn sức đâu để dẫn nó đi chơi: anh bị ốm liệt giường.

Vào trung tuần tháng mười hai, mọi người tìm được cho Pyotr Petrovich một chỗ nằm ở bệnh viện. Đác, cho tới khi đó vẫn chịu cấm cố trong nhà, thì nay nhất định không chịu nghe lời. Nó đưa chủ tới tận bệnh viện, và sau đó, mặc dù trời lạnh khủng khiếp (chó dobermann lông rất ngắn), nó dừng lại khóc hồi lâu trên bậc thềm ngập tuyết, vẻ đau khổ không gì an ủi được, điều mà chỉ có loài chó mới biết thể hiện.

Từ hôm đó, những ngày dài của Elena Arkadyevna trôi đi ngoài chợ đen. Những bức tranh của các họa sĩ nổi tiếng, Nga có, nước ngoài có, những đồ kim hoàn, những quyển sách hiếm, — tất cả những thứ đó chị đem đổi lấy bánh mì, những mẩu bánh mì lấm đất của thời kỳ phong tỏa, trộn lẫn với đủ loại tạp chất, hoặc đổi lấy khô dầu, hòng mong cứu lấy Pyotr Petrovich của chị.

Một lần, chị gặp may không ngờ, đổi món đồ trang sức quý lấy một miếng thịt. Và không phải là thứ thịt Phần Lan để lưu cữu, mà là gan còn tươi nguyên.

Hết sức phấn chấn về chiến tích đó, Elena Arkadyevna cho miếng gan vào xoong đun lên, rồi chạy vội tới bệnh viện.

— Anh Petrya, anh Petrya yêu quý của em! Anh thử nhìn xem hôm nay em mang gì đến cho anh này.

Chị lấy từ trong túi xách ra một cái bọc, giở ra và... kêu thét lên. Thay cho chiếc xoong có đựng miếng gan, nó bọc một chiếc khác, giống hệt, mà chị đã dùng để đun nước sưởi cho ấm trước khi đương đầu với cái lạnh ngoài đường.

Phát điên lên, chị lao qua những con đường hoang vắng, tiêu điều, vấp cả vào những đống tuyết. Mọi ý thức, mọi suy nghĩ rối tung rối mù vì lo sợ ở chị đều bị choán lấy bởi chiếc xoong con đen kịt nhọ nồi, bị bỏ quên trên bếp gang. Và còn hình ảnh của Đác nữa, con chó Đác đói lả mà chị đã để lại nhà một mình cùng với mùi thịt chín sực nức.

Đác đã không động vào cái xoong, cũng không làm bật nắp vung. Để làm được như thế, nó đã phải dằn lòng như thế nào. Trên sàn nhà, nó đã rỏ ra cả một vũng nước dãi.

Miếng gan không làm cho Pyotr Petrovich khỏe lại chút nào. Ngược lại, thể trạng anh dường như càng nhanh suy sụp.

Lần này, người bác sĩ vốn là chỗ quen biết với gia đình lâu nay, nói với Elena Arkadyevna:

— Chỉ có một lối thoát duy nhất, bạn thân mến ạ!

— Hy sinh Đác? Không, không, thà rằng tôi chết đi, chứ không đời nào!

— Ôi, Elena Arkadyevna! Cái chết của chị thì có giúp cho Pyotr Petrovich?

— Nhưng Petrya mà biết, anh ấy sẽ nguyền rủa tôi!

— Chị phải quyết định lấy thôi. Pyotr Petrovich có cơ kéo thêm được khoảng tám ngày, tôi hy vọng thế, sau khi đã... — và người bác sĩ làm một cử chỉ chán chường, tuyệt vọng.

Đác sút đi kinh khủng và trở nên gầy ốm hết sức, nhưng nhờ cái thân hình đẫy đà quá mức mà ngày nào đã ngăn không cho nó có mặt ở triển lãm chó, nó vẫn còn phảng phất hình hài một con chó. Và tất nhiên, trong khả năng cho phép, nó vẫn làm tròn mọi bổn phận của mình. Mỗi bận Elena Arkadyevna đi chợ đổi chác được gì về, chị tra chìa vào ổ khóa phủ băng vặn cho kêu rít lên, Đác lại chui ra khỏi cái ổ dọn cho nó ở dưới gầm bàn và chào đón bà chủ như một “công tử” chính cống.

Những ngày chị ở bệnh viện về, nó run người lên vì xúc động, và rúc mõm vào vạt chiếc áo lông lạnh giá, hít lấy hít để, hòng mong nhận ra cái mùi không lẫn đi đâu được của chủ nó.

Ngày hôm ấy, Đác không ra khỏi ổ.

— Đác, Đác..., nhưng ta có trách gì mày đâu!... Ta đâu có nghĩ điều gì xấu cho mày...

Đác vẫn không nhúc nhích. Qua những ô kính mờ hơi sương của cánh cửa sổ phòng ăn trông giống như một cái hầm đá, những tia nắng nhợt nhạt của buổi chiều tà một ngày tháng Mười hai ri rỉ lọt vào nhà.

Nó ốm chăng? Elena Arkadyevna tự hỏi.

Elena Arkadyevna run bắn lên, con chó không tự cho phép mình như thế bao giờ. Chị khóc.

— Đác, Đác, ta không đáng trách thế đâu. Đâu phải lỗi tại ta mà chiến tranh và cái chết vây hãm chúng ta, mà Pyotr Petrovich phải hấp hối? Xin Trời chứng giám cho, ta đâu muốn cho mày chết. Nhưng ta biết làm gì đây. Làm sao cứu được Pyotr Petrovich bây giờ?

Phải chăng tên ông chủ được Elena Arkadyevna nói ra đã có một tác động thần diệu đến con chó, hay vì động lòng thương người phụ nữ yếu đuối và bất hạnh mà con chó trườn ra khỏi nơi trú ngụ, và với vẻ hết sức ăn năn hối hận, nó đến bên Elena Arkadyevna lặng lẽ liếm tay chị.

Elena Arkadyevna những muốn vuốt ve và ôm lấy con chó dobermann (biết bao nhiêu lần trong những ngày khốn khổ sống thiếu chồng này, chị đã bằng chuyện trò cùng Đác mà có thêm sức mạnh), nhưng khi bắt gặp cái nhìn với đôi mắt ủ ê và rầu rĩ vì đau khổ của nó, thì chị òa lên thổn thức.

— Đác..., ta chưa nói gì với ông ấy cả... (Chị nói về bác gác cổng mà vừa sáng nay chị nhờ làm hộ cái công việc đao phủ kia).

Về sau này, nghĩ lại đến hàng nghìn lần về việc xảy ra tối hôm đó, chị cứ trách mình đã quên đóng chốt cửa ra vào. Thật vậy, như thế thì bác gác cổng sẽ phải gõ cửa và chị sẽ không mở cho bác vào.

Bác gác cổng vào nhà đúng lúc chị đang nói chuyện với Đác:

— Lại tôi đây, Elena Arkadyevna ạ... Đến lúc phải kết thúc đi thôi...

— Không..., không phải hôm nay.

— Lần lữa mà làm gì? Chả nhẽ chị lại quý con chó hơn chồng à?

— Ngày mai... một lần khác...

— Có thể, một lần khác thì tôi sẽ không còn sống nữa...

Nện đôi ủng kếch xù mà người ta dễ tưởng được rèn từ gang, bác gác cổng tiến về phía Đác và tròng một sợi dây vào cổ nó...

Và Đác, suốt mười năm rưỡi nay chưa từng chấp nhận một sự đối xử thô bạo dù là nhỏ nhặt nào đối với bản thân nó, lúc này không hề chống cự lại.

Pyotr Petrovich được cứu thoát.

Không bao giờ anh hỏi Elena Arkadyevna một điều gì về Đác. Vả lại, giờ đây anh rất ít nói và chỉ nói những gì hoàn toàn cần thiết.

Một hôm, ít lâu sau cuộc giải tỏa, họ cùng ra ngoài trời thở hít không khí trong lành, hay nói đúng hơn là sưởi nắng, vì trời hôm ấy đẹp tuyệt. Đó là con chó đầu tiên hai vợ chồng bắt gặp trong thành phố vào những năm cuối này.

Con chó được một cụ già trông có vẻ trí thức dắt đi. Con chó màu trắng, thật sạch sẽ, thật chải chuốt, lưng nịt một tấm vải lịch sự,
và cụ già với dáng đi không chê vào đâu được, râu cạo nhẵn, tay đi đôi găng da màu đen xinh xắn, cả hai đều có vẻ như từ một thế giới hoang đường, từ thời tiền chiến, thậm chí từ một hành tinh khác, đến với cái thành phố vẫn còn thưa thớt dân cư này.

Giữa Elena Arkadyevna và Pyotr Petrovich không có một lời trao đổi nào về chuyện ấy. Song, từ hôm ấy, chị ốm liệt giường, và sáu tháng sau thì chết.

Pyotr Petrovich còn sống thêm ba năm. Ngày giỗ đầu chị, anh lát trên mộ chị một tấm đá hoa cương giản dị, do chính anh đẽo với rất nhiều chăm chút; và bên cạnh mộ vợ, họa sĩ dựng tấm bia bằng đá hoa cương, trên đó anh khắc những chữ này:

“Để tưởng nhớ người bạn không quên Đác, nòi dobermann pinscher, người bảo vệ và hy sinh vì Leningrad trong những ngày phong tỏa”.

Hai năm cuối cùng, Pyotr Petrovich không mấy khi ra khỏi nhà, anh luôn bận vẽ đi vẽ lại Đác của anh.

Nguyễn Huy Thắng dịch

Nguồn: Rượu vang đỏ chiến thắng (tập truyện), NXB Lao động, 1985