Trang nhà > Gia đình > Truyền thống > Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn (1)
Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn (1)
Hội thảo "Việt Nam, thời điểm duy tân (1905-1908)"
Thứ Sáu 1, Tháng Sáu 2007, bởi
0.1. Những trùng hợp ngẫu nhiên?
Có một số sự việc mới nhìn thoáng qua tưởng là những trùng hợp ngẫu nhiên:
Cuộc diễn thuyết đầu tiên hô hào bỏ lối học cử nghiệp, noi gương duy tân của Nhật Bản, tức dọn đường công luận cho Đông Kinh nghĩa thục ra đời mấy tháng sau đó, diễn ra ngày Rằm tháng Giêng năm Đinh Mùi (1907) tại đền Ngọc Sơn; diễn giả là hai thanh niên đã sớm thành đạt trong lối học cử nghiệp: cử nhân Dương Bá Trạc và cử nhân Lương Trúc Đàm, con trai cả của Lương Văn Can.
Trụ sở Đông Kinh nghĩa thục đặt tại nhà Thục trưởng Lương Văn Can ở đầu phố Hàng Đào (nhà số 4, sau thêm nhà số 10), cách đền Ngọc Sơn chỉ năm chục mét.
Hơn mười lăm năm trước, khi bắt đầu nghiên cứu về tiến sĩ Vũ Tông Phan và hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn trên hồ Hoàn Kiếm, chúng tôi đọc thấy trên một tấm bia gắn ở tường đền Ngọc Sơn tên họ của cử nhân Lương Văn Can và hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền, hai yếu nhân của phong trào Duy tân - Đông Kinh nghĩa thục.
Những sự việc trên sẽ không còn là ngẫu nhiên nếu lần tìm ra được các mối liên hệ truyền thống về tư tưởng và phương thức hoạt động của tầng lớp sĩ phu ở hai đầu thế kỷ XIX và XX.
0.2. Sự cắm rễ trong quần chúng
Trong việc nghiên cứu về tầng lớp sĩ phu Việt Nam trong thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX nói chung và nói riêng là về phong trào duy tân của họ cùng trường Đông Kinh nghĩa thục hồi đầu thế kỷ XX, người ta thường chỉ lần ngược trở lại xa nhất là đến giữa thế kỷ XIX với một số bậc tiền bối của họ về mặt tư tưởng như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, và gần đây - cả Đặng Huy Trứ, Bùi Viện, Nguyễn Tư Giản, Phạm Phú Thứ ... Người ta thường chỉ ra hai nhân tố trực tiếp tác động làm nảy sinh phong trào duy tân là: 1) sự thất bại hoàn toàn của đường lối khởi nghĩa vũ trang chống lại ách thống trị của thực dân Pháp: 2) ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng duy tân ở Nhật Bản và Trung Quốc, du nhập vào Việt Nam qua các "tân thư".
Song như vậy chưa thể giải đáp vấn đề về "sự cắm rễ trong quần chúng", "bề dày xã hội" của phong trào duy tân phát triển nhanh chóng và rộng khắp, chẳng những "mở màn cho hàng loạt cuộc nổi dậy" trong những năm 10-30 của thế kỷ XX, mà còn làm cơ sở cho các trào lưu triển khai uyển chuyển tiếp theo như phổ biến "kinh giáng bút" của chư vị thánh thần thuần túy dân tộc (Đào Duy Anh), cải cách hệ thống giáo dục tiểu học và vận động đổi mới sinh hoạt ở làng xã, truyền bá chữ Quốc ngữ, phát triển báo chí và hội đoàn ở thành thị ... - tất cả đã làm nên "một cuộc cách mạng thầm lặng" (Hoàng Xuân Hãn), tạo nên "chất men văn hoá" (P. Brocheux) cho cuộc cách mạng long trời lở đất Tháng Tám năm 1945.
Vậy thì phải chăng ngay trong xã hội Việt Nam hồi cuối thế kỷ XVIII-đầu thế kỷ XIX, trước khi xuất hiện hai nhân tố hiển hiện và thúc đẩy tích cực trên đây, từng có những "mạch ngầm" nào đó chuẩn bị chất đất cho những mầm mống canh tân nảy nở?
Bài luận văn nhỏ này của chúng tôi thử góp một lời vào câu giải đáp vấn đề về cội nguồn văn hoá-xã hội sâu xa của phong trào Duy tân ở Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX.
1. 1. Ba chục năm cuối thế kỷ XVIII
Giai đoạn này đầy những biến động vũ bão trong lịch sử giải đất có tên chung là Việt Nam. Triều đình của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và của chúa Nguyễn ở Đàng Trong đều thối nát và rối loạn, các phe cánh nội bộ tranh giành ngôi báu tàn sát lẫn nhau. Trong tình hình ấy anh em Tây Sơn nổi dậy như một cơn lốc lần lượt cuốn phăng nền thống trị hơn hai trăm năm của họ Nguyễn (1785), rồi họ Trịnh (1786), tiếp đó bằng một trận tốc chiến tốc thắng tống cổ hai mươi vạn quân xâm lược nhà Thanh ra khỏi bờ cõi (1789), đưa người "áo vải" (chỉ nông dân, dân thường) lên ngồi hiên ngang trên ngai vàng, có lẽ cũng vẫn trong tư thế vén vạt áo lên, để lộ một chân trần (chân kia đi ủng!) như bức tượng Đức Ông ở chùa Bộc gần gò Đống Đa mà người ta cho là miêu tả Quang Trung. Nhưng rồi đấng minh quân đã đột ngột từ trần (1892) mà chưa kịp thực thi một số cải cách tiến bộ về kinh tế và văn hoá do ông đề xuất mong làm căn bản cho triều chính mới, khả dĩ thay đổi "bản chất quân phiệt và chỉ có thể tồn tại bằng chế độ quân chính" của nhà Tây Sơn (Tạ Chí Đại Trường). Thiếu cái căn bản ấy nên một triều đại hứa hẹn trở thành tiến bộ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam sớm sụp đổ, đúng như một danh sĩ triều Nguyễn đã viết về những kẻ thừa kế ông vua anh hùng:
Khước tiếu Tây Sơn nghiệt
Vô bản nhất triêu khuynh
(Lại nực cười cho lũ nghiệt chướng nhà Tây Sơn! Không có gốc nên một sớm một chiều đã sụp đổ - Nguyễn Văn Siêu).
1.2. Chế độ quân chính
Chế độ "có bản chất quân phiệt" chưa kịp lột xác mà mất chủ tướng thì tất sinh nội loạn, tàn sát lẫn nhau, làm suy yếu triều đại, tạo thuận lợi cho các thế lực thù địch trỗi dậy, dẫn đến cuộc nội chiến kéo dài Tây Sơn - Nguyễn Ánh. Tận dụng được ưu thế của kỹ thuật phương Tây và tiền bạc cùng lực lượng của thương nhân người Hoa, và - quan trọng hơn-lợi dụng được tâm lý sớm thất vọng của sĩ phu và dân chúng đối với triều Tây Sơn, thể hiện thành những cuộc ly khai trong hàng ngũ tướng sĩ của vua Quang Toản, Nguyễn Ánh đánh chiếm kinh đô Phú Xuân năm 1801 và năm 1802 tiến ra Bắc thành tiêu diệt vương triều của những người áo vải, thống nhất được đất nước sau ngót hai trăm năm phân tranh.
Khi tiến vào Bắc thành, Gia Long, vị vua sáng lập tân triều tuyên bố từ nay thực thi "vương đạo", thiết lập nền "văn trị", và quả đã làm được như vậy trong khoảng hai chục năm đầu triều. Nhưng vốn ra đời trong nghịch cảnh nội chiến, triều Nguyễn bản thân là "nghịch lý của lịch sử": "một nhà nước phong kiến tập quyền vốn đã không còn vai trò lịch sử ngay khi nó mới ra đời" (Cao Xuân Huy), bởi vậy chỉ có thể tuyên bố "vương đạo", "văn trị", nhưng trên thực tế buộc phải thực thi "bá đạo": cai trị bằng đàn áp khốc liệt (đối với cả các vị huân thần như quận công Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành), bằng bóc lột sưu cao thuế nặng, bắt phu bắt lính triền miên, gây nên sự phẫn nộ trong các tầng lớp xã hội, khiến "giặc dã" lại nổi lên khắp nơi - một điều "Đại Nam thực lục", bộ chính sử của Quốc sử quán triều Nguyễn, cũng không thể che giấu. Thơ văn của các danh sĩ đầu triều Nguyễn: Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát... hơn một lần vẽ lên bức tranh hiện thực sinh động về thành thị trống vắng, làng xóm tiêu điều, dân tình điêu đứng trong ba chục năm đầu triều Nguyễn.
Lợi dụng tình thế "cùng tắc biến" các thế lực chống đối cát cứ của Nông Văn Vân ở Cao Bằng-Tuyên Quang, Lê Văn Lương ở Hoà Bình - Ninh Bình - Thanh Hoá, Lê Văn Khôi ở Gia Định gần như cùng một lúc vào năm 1833 đã phát động 3 cuộc khởi nghĩa lớn. Nhưng với bộ máy quân phiệt vận hành ngày càng hiệu quả qua kinh nghiệm của cuộc nội chiến ba chục năm triều Nguyễn đã dập tắt được và hoàn thành nền thống trị chuyên chế trên cả nước. Tuy nhiên, nổi loạn và khởi nghĩa lớn nhỏ vẫn tiếp tục nổ ra trong suốt triều Nguyễn, có đến 500 cuộc, riêng thời Minh Mạng (1820-1841) có 250 cuộc (Đại cương lịch sử Việt Nam, T.I)! Chế độ quân chủ chuyên chế nhà Nguyễn tiếp tục tồn tại với "một loạt khủng hoảng khó lòng hàn gắn nổi như khủng hoảng về tư liệu sản xuất, về lực lượng sản xuất, và nhất là về nhân tâm"(Cao Xuân Huy).
2.0. Thực tế mới
Những biến động vũ bão làm lung lay đến tận nền tảng của chế độ xã hội vốn được định hình vững chắc trong khuôn mẫu Nho giáo chính thống hơn ba trăm năm, từ đầu thế kỷ XV khi Lê Lợi thiết lập triều Lê sơ đến tận giữa thế kỷ XVIII. Những xáo trộn ghê gớm trong có ba chục năm cuối thế kỷ ấy, với những thăng trầm nhanh đến chóng mặt trong số phận của mọi giai tầng từ vua chúa cho đến đám thường dân áo vải ("lên voi xuống chó" - như dân gian vẫn nói), sự can thiệp hiệu quả của kỹ thuật và vũ khí phương Tây do các cha cố đạo Gia-tô đem đến, cùng tiền bạc "chảy vào như nước" do giao thương với ngoại quốc, một mặt tạo nên sự phồn thịnh ở một số thành thị, nhưng mặt khác cũng làm bại hoại luân thường đạo lý v.v... - tất cả không thể không tác động đến tư tưởng và tâm lý của mọi người, trước hết là của tầng lớp vẫn được coi là những kẻ hướng đạo "tứ dân" (sĩ, nông, công, thương) - các môn đệ của Khổng môn: Thánh hiền đã dạy họ phải "tiên thiên hạ chi ưu" (lo, tức suy nghĩ, trước mọi người) mà! Nhiều tín điều của Nho giáo chính thống (thường gọi là Tống nho) như "trung quân", "tam cương ngũ thường", "nông vi bản", "trọng nông, khinh thương" v.v... không đứng vững được trước những thử thách mới của thời đại. Các Nho sĩ buộc phải xét lại và thích nghi lý thuyết chính trị - đạo đức Khổng Mạnh với thực tế mới theo những phương châm khác nhau, tuỳ hoàn cảnh mỗi nơi và của mỗi người.
2.1. Nhóm sĩ phu Tây Sơn
Bộ phận sĩ phu giai đoạn này được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn cả là sĩ phu thời Tây Sơn, nói chính xác hơn là bộ phận hợp tác với triều đại Tây Sơn. Mặc dù về triều đại Tây Sơn đã có hàng nghìn công trình nghiên cứu, gần đây vẫn có một số học giả nêu vấn đề phải xét lại các nhận định về thời kỳ lịch sử này do trong các công trình trước đây chưa khai thác được hàng ngàn trang tư liệu đến nay vẫn nằm im trong các kho lưu trữ của nước ngoài. Hy vọng rằng việc khai thác khối tư liệu đó sẽ giúp đính chính và bổ sung các nhận định về giai đoạn lịch sử sôi động này, kể cả về những diễn biến tư tưởng và tâm tư của nhóm Nho sĩ hợp tác với triều Tây Sơn. Cho đến nay, trên đại thể những nét đặc trưng của nhóm Nho sĩ này thường được đề cập là: tinh thần tự hào dân tộc, niềm lạc quan tin tưởng vào khả năng chấn hưng xã hội đang suy đồi-chấn hưng trên nền tảng "nhân nghĩa", theo đường hướng "trung chính" (tức ngay thẳng, đúng đắn) của Khổng Mạnh (xin chú ý tên gọi cơ quan tu thư mà La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp phụ trách: Sùng chính viện), thái độ nhập thế, mong muốn tham gia canh tân đất nước trong buổi đầu và sự thất vọng nhanh chóng, niềm u hoài khi triều Tây Sơn sớm sụp đổ (Nguyễn Lộc).
2.2. Nhóm sĩ phu Gia Định
Về nhóm sĩ phu Gia Định cũng đã có cả một một chuyên khảo đặc sắc. Vốn có nguồn gốc đặc biệt (người Hoa, gọi là người "Minh hương phản Thanh phục Minh" đến Đàng Trong tỵ nạn từ 1679), sau gần trăm năm họ đã trải qua một quá trình "Việt hoá" nhất định, nhưng vẫn giữ đầu óc thực tiễn, nhạy bén trên thương trường, cùng phong cách riêng "Nho mà không Nho, không Nho mà Nho" bởi nếp sống hội nhập cộng đồng người Việt - tất cả đã giúp họ phát huy vai trò chính trị - xã hội tích cực trong thời kỳ Nguyễn Ánh còn đấu tranh dựng cơ đồ (1778-1802). Nhưng rồi bước sang thời kỳ sau (1802-1862), sau khi triều Nguyễn mà họ đã dốc hết tài lực phò tá, được thiết lập thì họ bị phân hoá rõ rệt, bộ phận cầm quyền bắt đầu "tha hoá", "bị trượt dài cả về tư tưởng lẫn chính trị" (Cao Tự Thanh).
Về hai nhóm Nho sĩ trên chúng tôi xin miễn đề cập chi tiết, để dành thời gian bàn kỹ hơn về nhóm sĩ phu Hà thành đã sáng lập hội Hướng Thiện.
2.3. Nhóm sĩ phu Hà thành
Nhóm sĩ phu mà chúng ta định xem xét đã lâm vào một nghịch cảnh éo le hơn so với hai nhóm trên, chính vì thế diễn biến tư tưởng của họ ở chiều sâu hơn, cũng lý thú hơn từ khía cạnh chúng ta quan tâm, nhưng lại hầu như chưa được nghiên cứu. Người ta mới chỉ chú ý đến một nhân vật trong số họ là "Thánh Quát", tức Cao Bá Quát, nhưng chủ yếu mới khai thác từ giác độ tham gia khởi nghĩa (1853-1854) chống triều Tự Đức, sớm thất bại và hy sinh. Cuốn "Thơ văn Cao bá Quát", tái bản đã ba/bốn lần, vẫn hoàn toàn không đả động gì đến hội Hướng Thiện; có nhắc đến Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Văn Lý v.v... thì cũng chỉ thuần tuý như những bạn thơ của Thánh Quát. Ngay cả về "Thần Siêu", tức Nguyễn Văn Siêu, cho đến nay vẫn chưa có luận văn chuyên khảo nào ngoài vài bài mang tính chất truyện danh nhân và hai công trình dịch thuật đơn thuần, thiếu cả những chú giải cần thiết.
Nhóm sĩ phu này vốn xuất thân trong những gia tộc Nho giáo "nòi", tức có truyền thống nhiều đời khoa bảng, được hấp thụ tinh hoa đất Thăng Long "nghìn năm văn hiến", thấm nhuần đạo lý Khổng Mạnh, nền nếp Nho gia, như thường nói, cùng dòng sữa mẹ. Họ dùi mài kinh sử đương nhiên để "xuất môn", đi thi đỗ đạt, ra phò vua giúp nước. Khác với các nhóm Nho sĩ Tây Sơn và Gia Định, họ sinh ra vào thời khi cuộc chiến đã vào hồi chót quyết liệt rồi nhanh chóng kết thúc, trưởng thành trong khoảng hai chục năm đầu khi mà tân triều đại, để tranh thủ sĩ phu Bắc Hà, thi thố một số biện pháp "vương đạo", nên đã nhen nhóm ở họ ảo tưởng về một nền "văn trị". Họ ghi nhận triều Nguyễn đã thống nhất được đất nước sau hai trăm năm chia cắt làm đôi, tức đã làm được việc "hợp lòng Trời", hay nói theo ngôn ngữ ngày nay - phù hợp quy luật lịch sử và nhu cầu của sự phát triển xã hội.
Thế nhưng nếu như nhóm sĩ phu ủng hộ Tây Sơn có lý do chính đáng để vứt bỏ quan niệm "trung quân" chính thống ("tôi trung không thờ hai chúa"), đoạn tuyệt với hôn quân Lê Chiêu Thống rước quân ngoại bang về dày xéo Tổ quốc, dứt khoát ra phò giúp minh quân "áo vải cờ đào" Quang Trung để đánh đuổi quân xâm lược, canh tân nước nhà; nếu như sĩ phu Gia Định ở thời kỳ đầu dốc tài lực phục vụ Nguyễn Ánh vì những lợi ích thực tế mà ông ta đã đem lại cho họ và có thể sẽ ban phát nhiều hơn một khi giành được phần thắng - thì nhóm sĩ phu chúng ta đang đề cập không thể một lòng thanh thản phục vụ cái tân triều nói "vương đạo", nhưng làm "bá đạo". Rõ ràng đạo lý "nhân nghĩa", chí hướng "trung chính" khó mà đem thực thi dưới tân triều chuyên chế. Việc tham hiệp Thái Nguyên Vũ Tông Phan vừa mới thử "làm quan chỉ chuyên chú việc nhân từ " (Đại nam liệt truyện) nên đã "không tâu trình về bọn "giặc cướp" trong hạt trấn, đến khi gia hạn cho bắt lại không bắt được bao nhiêu", liền bị cách chức (Đại Nam thực lục) đã cho họ thấy:
Học cổ làm quan nay chẳng hợp
(Vũ Tông Phan - Ngẫu cảm - 1831)
Là những môn đồ chân chính của Khổng Tử, họ bất bình. Họ chứng kiến cảnh dân đói khát tụ tập nhau làm loạn, nhưng họ cũng không thể không thấy mọi sự phản kháng lập tức bị đàn áp thảm khốc. Chống lại triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ khác nào - Đó là một ẩn ý mà tiến sĩ Nguyễn Văn Lý gửi gấm trong cái điển cố quen thuộc - ở bài văn tế Vũ Tông Phan sau này (1851): "Phan tự trong lòng biết rõ giữa dòng nước xiết phải dũng cảm thoái lui" (chúng tôi nhấn). Phương châm ứng xử này trước thời thế của Vũ Tông Phan và các bạn cùng chí hướng trong hội Hướng Thiện sẽ còn truyền đến lớp sĩ phu liên quan Đông Kinh nghĩa thục như Nguyễn Trọng Hợp, nên xin phân tích rõ hơn.
Trước hết, xin lưu ý rằng nhóm sĩ phu này ưa dùng cặp "hành-tàng" (hành động, hoặc ẩn đi, nuôi chí khí để chơ thời cơ?) hơn "xuất-xử" (xuất chính, tức ra làm quan, hoặc ở nhà). Dùng chữ "tàng" họ đương nhiên ngầm nhắc nhở nhau câu trong Kinh dịch: "Quân tử tàng khí ư thân đãi thì nhi động" (người quân tử ẩn giấu chí khí nơi mình, chờ thời mà hành động). Chẳng phải ngẫu nhiên, sau khi họ sáng lập hội Hướng Thiện thì vị Hội trưởng đầu tiên cho khắc trên tấm bia nêu tôn chỉ của hội hai câu thơ:
Gươm báu mới mài ngời ánh sáng
Hành hay tàng vẫn rạng muôn phương
(Vũ Tông Phan - Ngọc Sơn đế quân từ ký, 1843)
Tức thị là chữ "tàng" của họ không có nghĩa "không hành động" mà là làm sao, hành động thế nào để cái chí khí Nho gia mà thời thế buộc phải tàng đó vẫn toả sáng, vẫn ảnh hưởng khắp nơi nơi. Luật lệ đời Minh Mạng rất nghiêm khắc đối với việc cáo ốm xin nghỉ hưu (Đại nam điển lệ toát yếu). Vũ Tông Phan trong một bài thơ gọi sự bắt buộc làm quan như vậy là "cái nợ quan trường" và không ai lường trước được "cái nợ quan trường biết mấy niên?", có người may mắn chỉ phải trả món nọ ấy 7 năm như chính ông Phan, có người phải mang nó gần như suốt đời như Nguyễn Văn Lý. Trong nghịch cảnh ấy của họ thì quan niệm trên đây về "hành-tàng" là một đối sách hiệu quả đối với sự ràng buộc của nhà nước chuyên chế: họ có thể "tàng" ngay giữa triều đình, nghĩa là vẫn tiến hành những hoạt động theo một phương thức riêng nhằm thực hiện chí hướng chung của họ. Trên thực tế tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, phó bảng Nguyễn Văn Siêu, và cả cử nhân Cao Bá Quát (cho đến khi không "tàng" được nữa vào cuối đời, buộc phải "hành" một cách tuyệt vọng!), đều đã phải ứng xử như vậy để thực hiện được phần nào đạo "nhân nghĩa" và chí hướng "trung chính" của Nho gia mà họ mong muốn giữ vững. Nguyễn Văn Lý từng viết trong bài thơ năm 1835 gửi Vũ Tông Phan và cử nhân Phạm Hội [1] (1791-1854), người cáo quan về mở trường dạy học trước cả tiến sĩ họ Vũ: "Dùng được năng lực đúng chỗ, ấy là làm nên công danh sự nghiệp". Bản thân ông Phan trong thư năm 1838 gửi tiến sĩ Lê Duy Trung (1795-1863) sau đêm chia tay tiễn Trung vào Huế nhậm chức, cũng từng cảnh tỉnh: "Điều đáng lo nhất trong thiên hạ, không gì bằng sức không đủ mà gắng gượng làm". Ông muốn nhắn nhủ bè bạn nơi "gần mặt trời dễ rát mặt" về chữ "tàng" của họ chăng?
Nhưng điều mới mẻ nhất, căn bản nhất trong quan niệm "hành-tàng" của nhóm sĩ phu Hà thành đầu triều Nguyễn là họ không "tàng" đơn lẻ mà tập hợp nhau lại trong một tổ chức văn hoá-xã hội , điều chưa từng có trong tầng lớp sĩ phu Việt Nam các đời trước. Trong các đời trước chỉ thấy các "văn hội", được thành lập theo lệ chung, gồm những người theo Nho học, để xuân thu nhị kỳ tế lễ Khổng Tử cùng chư vị tiên hiền địa phương. Sử sách, tư liệu văn học, gia phả cũng nhắc đến nhiều "tao đàn", "thi xã" tập họp những người yêu thơ để ngâm vịnh, xướng hoạ với nhau. Nhưng một tổ chức quy mô, tiến hành những hoạt động văn hoá-xã hội rộng rãi như hội Hướng Thiện của sĩ phu Hà thành hồi đầu thế kỷ XIX thì chưa thấy một tài liệu nào ghi nhận là từng tồn tại ở các thế kỷ trước.
3.1. Mục đích chấn chỉnh đạo làm người
Xưa nay đều thế, làm sao có thể thực hiện sự nghiệp giáo dục có kết quả trong một môi trường văn hoá-xã hội suy đồi như Vũ Tông Phan đã miêu tả sinh động trong bài thơ "Đến đầu địa giới Hà Nội", sáng tác năm 1831 khi từ kinh đô Huế ra nhậm chức Giáo thụ phủ Thuận An ở Bắc Ninh. Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý trong lời chú cho một bài thơ sáng tác năm 1839 dường như đã thay mặt cả nhóm sĩ phu này phát biểu thành lời nỗi băn khoăn chung của họ: "Trung hưng vận nước mà không chấn chỉnh đạo lý làm người được sao?" (Cảm tác trong khi ốm nghỉ ở nhà - 1839).
Đạo lý làm người chỉ có thể chấn chỉnh cùng với việc cải thiện môi trường xã hội, chấn hưng văn hoá, mà sự nghiệp này thì từng cá nhân riêng rẽ, từng ngôi trường biệt lập, như ở trong các đời trước, không thể làm được. Đó là nguyên do thúc đẩy họ phải tập họp nhau lại.
Nhưng Văn hội, tổ chức truyền thống từ xưa của Nho sĩ, có những khuôn khổ quá chật hẹp, không thể đáp ứng những mục tiêu của Vũ Tông Phan cùng các đồng chí. Theo Bạ tịch Văn chỉ Thọ Xương, khắc in năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), tính đến năm 1836 là năm khởi công xây dựng Văn chỉ, Văn hội mới có 39 thành viên, gồm 2 tiến sĩ (V.T.Phan và N.V.Lý), 7 cử nhân (N.V.Siêu bấy giờ cũng chỉ mới đỗ cử nhân) và 30 tú tài. "Bạ tịch" này được khắc tiếp trong những năm sau, cho biết tính đến năm 1870 Văn hội Thọ Xương có 9 tiến sĩ và phó bảng, 27 cử nhân, 105 tú tài, tổng cộng 141 người - đó là một số lượng không nhỏ trong có ngót bẩy chục năm khoa cử Hán học ở một huyện (khoa thi hương đầu tiên dưới triều Nguyễn là vào năm 1807), nhưng còn quá ít cho những hoạt động văn hoá xã hội rộng khắp, không chỉ đóng khung trong huyện Thọ Xương. Hơn nữa, bản Ước lệ (tức điều lệ do các thành viên cùng thoả thuận), cũng khắc in trong quyển bạ tịch văn chỉ Thọ Xương nói trên, cho thấy Văn hội Thọ Xương không thể vượt ra ngoài quy chế chung của nhà nước phong kiến quy định cho các hội tư văn là chỉ gồm những người thường trú tại địa phương, có khoa danh từ tú tài trở lên và chỉ tiến hành những nghi lễ xuân thu nhị kỳ cúng tế Khổng Tử cùng chư vị tiên hiền. Thực tế đó thúc đẩy những người sáng lập Văn hội Thọ Xương nghĩ đến một tổ chức rộng rãi hơn về thành phần, địa bàn và phóng khoáng hơn trong hoạt động.
Vũ Thế Khôi
Xem tiếp:Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn (kỳ 2)
Xem online : Ngọc Sơn, Tháp Bút, Đài Nghiên
[1] Theo lời cụ Hoàng Đạo Thuý có mẹ là con gái Phạm Hội thì thân phụ ông Phạm Quỳnh là tú tài Phạm Điển được thừa tự người con trai mất sớm của ông Phạm Hội. Ông Hội cũng là môn sinh của Lập Trai Phạm Quý Thích, đỗ cử nhân năm 1819, làm Giáo Thụ phủ Anh Sơn một thời gian ngắn, năm 1824 đã cáo hưu về mở trường dạy học ở đầu thôn Tự Tháp. Ông cũng là thành viên Văn hội Thọ Xương và hội Hướng Thiện, từng thay mặt hội Hướng Thiện làm hai bài văn kính cáo Quan Thánh đế quân và Văn Xương đế quân về việc đền miếu trên đảo Ngọc nay đều do Hội thờ cúng. Ông Phạm Quỳnh có một thời gian là Hội trưởng Trí Tri, một tổ chức xã hội hoạt động văn hoá-giáo dục trước và sau Đông Kinh Nghĩa Thục, nhưng rất tiếc còn ít được nghiên cứu. Hội quán Trí Tri ở phố Hàng Quạt nay là một cơ sở giáo dục thường xuyên và trụ sở của Câu lạc bộ "Chiến sĩ diệt dốt", tập hợp các cựu cán bộ Hội Truyền bá quốc ngữ và Bình dân học vụ.