Trang nhà > Văn chương > Nghiên cứu > HỒI KẾT CỦA VĂN CHƯƠNG
HỒI KẾT CỦA VĂN CHƯƠNG
Thứ Sáu 21, Tháng Tám 2015, bởi
(Những bài thuyết trình của GS Kôjin Karatani ở Trung Tâm Nghiên cứu Quốc Tế về Khoa Học Xã Hội, Đại Học Tổng Hợp Kinki, Nhật Bản)
Phần I
1. Ngày hôm nay tôi muốn nói về “hồi kết của văn chương hiện đại”. Điều đó không hàm ý rằng, sau văn chương hiện đại thì đến văn chương hậu hiện đai. Điều đó cũng không có nghĩa là văn chương sẽ hoàn toàn biến mất.Cái mà tôi muốn đề cập đến, đó là cái vai trò đặc biệt mà văn chương đã từng gánh vác trong thời hiện đại, một vai trò quan trọng, một giá trị đặc biệt và sự kết thúc của cái hiện tượng này. Thực sự tôi chẳng cần phải loan báo thông tin này. Nó là một hiện thực hiển nhiên đang diễn ra, ngày nay chẳng còn mấy ai tin vào tầm quan trọng của văn chương nữa. Vì thế tôi chẳng muốn đóng vai người rao giảng hay truyền đi cái thông tin này.Nhưng lúc này là thời điểm cần nhắc lại rằng trong quá khứ đã có những lúc văn chương đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
2. Trong cuộc đời mình, tôi đã gắn bó rất nhiều với văn chương, nhưng tôi không hề có ý định khuyến khích các bạn làm như tôi và tôi thấy rằng việc đó hoàn toàn không cần thiết. Tuy vậy chúng ta càn phải suy nghĩ về một thời kỳ mà văn chương có vẻ như là bất tử, suy nghĩ về những nguyên nhân đã dẫn đến sự tắt lịm của ánh hào quang đó, những suy nghĩ ấy sẽ giúp cái nhìn của chúng ta về thời đại của mình trở nên sáng tỏ hơn.
3. Khi tôi nói đến văn chương hiện đại, tôi nghĩ tới tiểu thuyết. Hiển nhiên rằng văn chương hiện đại không chỉ có tiểu thuyết. Nhưng tính đặc biệt của tiểu thuyết bắt nguồn từ cái vị trí số một củanó. “Văn chương” đã tồn tại từ rất lâu trước thời kỳ hiện đại. Nó quan trọng đối với giai tầng lãnh đạo và các trí thức tinh hoa. Nhưng họ không quan tâm đến tiểu thuyết. Thi ca chẳng hạn, đã xuất hiện từ thời Aristole, được tôn sùng, được đưa vào sân khấu, nhưng tiểu thuyết chẳng bao giờ có may mắn đó.Ở Nhật Bản, ở Trung Quốc cũng vậy, tiểu thuyết hay những câu chuyện kỳ ảo / dã sử chỉ là một thứ văn chương hạng hai. Với sự ra đời và lan tỏa của công nghệ in ấn, tiểu thuyết trở nên ngày càng quan trọng, là nguồn chủ lực cho ra đời những tác phẩm tầm cỡ.
4. Hồi kết của tiểu thuyết cũng đánh dấu sự kết thúc của một thời kỳ mà các tiểu thuyết gia giữ một địa vị thống trị trong văn chương. Ở đây tôi muốn nhắn đến Sartre. Người ta sẽ nhắc tôi rằng Sartre không chỉ là tiểu thuyết gia, ông còn là nhà triết học, kịch tác gia, nhà phê bình các loại hình nghệ thuật, tiểu luận gia, nhà báo, nhà hoạt động xã hội... Nhưng với tôi và với nhiều người khác, Sartre - tiểu thuyết gia vẫn là nhân vật tầm vóc nhất.
5. Có một lân khi đọc lại những tác phẩm và các bài phỏng vấn của Deleuze, tôi bắt gặp một tuyên bố thú vị của ông rằng Sartre là người thầy duy nhất của mình. Deleuze phân biệt “những người thầy xã hôi” và “những người thầy cá nhân” và ông khẳng định rằng với ông, Sartre là“người thấy cá nhân” duy nhất, ông cũng khẳng định rằng Sartre là chỉ là một tiểu thuyết gia, Sartre chưa từng bao giờ là một giáo sư triết học, giảng dậy ở một trường đại học. Bởi vì triết học của ông đậm chất văn chương, nói đúng hơn là một thứ gì đó rất gần với tiểu thuyết.
6. Deleuze đã trích dẫn câu nói sau đây của Sartre “Nói ngắn gọn, Văn chương tạo ra tính khách quan của một xã hội trong trạng thái cách mạng thường trực”. Nói cách khác, văn chương tự nhận về mình cái trách nhiệm tiến hành một cuộc cách mạng không ngừng mỗi khi mà nền chính trị cách mạng trở thành bảo thủ. Điều đáng chú ý là Sartre đã nhắc tới Văn chương chứ không phải là Triết học. Hiển nhiên rằng ông nói điều đó từ quan điểm của một nhà văn, một tiểu thuyết gia chứ không phải một nhà triết học.
7. Sự hiện diện của Sartre như là một trái núi vĩ đại ngáng đường những người đến sau. Nhiều người trong số họ đã chọn cách châm chích hay giễu cợt cách suy tư của ông để ghi điểm cho mình, để bảo toàn chỗ đứng của mình, Trong thực tế thực ra là họ rất ngưỡng mộ ông. Người ta xưng tụng phản-tiểu thuyết để nói rằng Sartre – tiểu thuyết gia là kẻ lạc mốt, nhưng trên bình diện văn chương, Buồn nôn chính một phản-tiểu thuyết đích thực.
8. Nhắc lại ở đây một quan niệm đã có được một tầm ảnh hưởng rất lớn lao trong những năm 60, quan niệm về Lối viết. Nó dùng để chỉ những tác phẩm không phải là tiểu thuyết mà cũng chẳng phải là triết học. Thành thật mà nói, các đại diện của trường phái này chẳng biết viết tiểu thuyết mà cũng không viết nổi các vở kịch (giống như Sartre). Họ đành chọn cách khước từ hay phủ nhận các thể loại này, tìm cách mặc một bộ quần áo mới (theo quan niệm về Lối viết) cho cái mà Sartre vẫn gọi là Văn chương. Điều này nói lên rằng, cái gọi là Lối viết không hề là sự kết thúc của tiểu thuyết (kể cả Tiểu Thuyết mới) và cái hy vọng tìm thấy ở đó cái khả năng tạo ra một thứ văn chương mới chỉ là một hy vọng hão huyền.
9. Trong công việc làm phê bình văn học của mình ở Nhật Bản, tôi đã có một cảm nhận rõ ràng về hồi kết của văn chương hiện đại từ những năm 1980. Đó là thời kỳ của một nền kinh tế bong bóng, của một xã hội tiêu thụ, cái được định danh là Hậu hiện đại. Đa phần những người trẻ tuổi đổ xô đi tìm đọc các “suy tư hiện đại”chứ không còn đọc tiểu thuyết. Nói cách khác văn chương không còn giữ vị trí tiên phong như trước nữa. Theo nghĩa đó, cái mà Sartre gọi là văn chương đã chuyển hóa thành phê bình văn học và nó cũng chẳng kéo dài được lâu. Khi tôi nói về“cái kết của văn chương” tôi đã gộp cả vào đó khái niệm lối viết với tư cách một thể loại phê bình văn học cũng như các thể loại phê bình giải cấu trúc
Phần II
10. Trước khi trả lời cho câu hỏi “vì sao” và “như thế nào” trước hiện tượng suy giảm và lụi tàn những ảnh hưởng của văn chương đối với xã hội, tôi muốn nhấn mạnh rằng hiện tượng này không chỉ giới hạn ở Nhật Bản. Tôi nhận thấy sự lùi bước của văn chương ở Pháp, ở Mỹ đã xẩy ra sớm hơn rất nhiều. Lý do: Văn hóa đại chúng, tiêu biểu là truyền hình đã phát triển từ rất lâu (những năm 1950) ở đó. Chúng ta đều biết rằng ở Mỹ có rất nhiều các sắc tộc thiểu số, văn chương từ khá lâu cũng đã chuyển hóa thành văn chương của các sắc tộc thiểu số (hiện tượng ngoại biên hóa). Từ những năm 1970 trên văn đàn đã xuất hiện những cây bút nữ da mầu hay các cây bút di dân châu Á, văn chương của họ đúng là một thứ văn chương sinh động đầy sức sống, nhưng nó lại không thể có tầm vóc bao trùm để ảnh hưởng tới toàn xã hội. Chúng ta cũng đã gặp một tình huống tương tự ở Nhật Bản vào những năm 1980 với các tên tuổi như Kenji Nakagami, Yangji Lee hay Yûko Tsushima.
11. Nước Mỹ đã tiến xa hơn Nhật Bản rất nhiều. Việc xuất hiện các khoa “viết văn “trong các trường Đại học Nhật xẩy ra sau nước Mỹ vài chục năm. Lúc còn sống Faulkner đã có lần mỉa mai rằng theo ông, cách thức tốt nhất để trở thành một nhà văn là đi làm quản lý một nhà thổ! Nhưng người ta còn đi xa hơn thế nữa, hàng loạt giáo trình đại học dành cho “quy trình” viết văn được tung ra trong thời kỳ đó. Nhưng giờ đây khoa văn học không còn đắt hàng nữa, chúng tồn tại được là nhờ vào việc chuyển hướng sang giảng dậy / nghiên cứu về điện ảnh. Ở Nhật bản cũng vậy, giờ đây các khoa văn học cũng đang trôi về trạng thái hấp hối.
12. Nơi mà tôi cảm nhận rõ rệt nhất về sự cáo chung của văn học là ở Hàn Quốc. Một cú sốc với tôi. Trong thập niên 90 tôi đã có nhiều dịp tham gia vào những cuộc gặp mặt giữa các nhà văn Nhật Bản và Hàn Quốc. Ở những cuộc họp đó, tôi có cảm tưởng rằng những gì xẩy ra với văn học Nhật Bản chưa hề chạm tới Hàn Quốc. Một thời gian sau đó, khoảng năm 2000, trong một cuộc họp báo ở Hàn Quốc, tôi đã tuyên bố rằng văn học đã chết tại Nhật Bản. Đương nhiên nền văn học Nhật Bản vẫn còn tiếp tục tạo ra những sản phẩm ăn khách, có sức lan tỏa và được đón nhận nồng nhiệt trong giới trẻ Hàn Quốc như trường hợp Haruki Murakami, nhưng ở Nhật Bản văn chương đã mất đi vai trò độc tôn, mất đi sức ảnh hưởng trong xã hội. Trong cuộc họp báo đó, tôi cũng bầy tỏ niềm lạc quan tin rằng văn học Hàn Quốc không phải chịu cùng số phận như văn học Nhật Bản.
13. Nhưng rồi sự suy tàn của Văn học ở Hàn Quốc cũng bắt đầu hé lộ vào cuối thập kỷ 90. Jong Chul Kim, một nhà phê bình văn học danh tiếng, đã giã từ lĩnh vực phê bình văn học để sáng lập một phong trào bảo vệ sinh thái, ông xuất bản một tờ báo có tên gọi “Phê bình xanh”. Mùa thu năm 2002, ông đã ngỏ ý mời tôi sang Hàn Quốc tổ chức một hội thảo vì ông cũng biết rằng tôi đã rời xa lĩnh vực phê bình văn học để lãnh đạo phong trào NAM. Để tránh mọi hiểu nhầm ở đây, tôi muốn nhấn mạnh rằng Jong Chul Kim là người đã thú nhận đọc say mê tới bốn lần cuốn tiểu thuyết Mưa Tuyết (Bruine de neige) của Ichiro Tanizaki. Tôi đã hỏỉ lý do vì sao ông rời bỏ văn chương. Câu trả lời của ông là : khởi đầu ông lựa chọn văn chương vì tin rằng văn chương liên quan tới mọi mặt của xã hội, từ cái tôi thầm kín cho đến nền chính trị trên toàn thế giới, sau một thời gian ông nhận ra rằng văn chương giờ đây chỉ quan tâm đến những vấn đề quá ư hạn hẹp và vụn vặt, trong mắt của ông, nó không còn là văn chương nữa, đó là lý do ông đã rời bỏ nó.
14. Một thời gian sau đó, tôi được biết rằng gần như tất cả những nhà phê bình văn học Hàn Quốc mà tôi đã từng có dịp gặp gỡ đều đã rút lui khỏi địa hạt văn chương. Đa phần trong số họ không chỉ làm phê bình văn học, họ còn xuất bản các tạp chí hay điều hành các nhà xuất bản. Những người đó gần như rời bỏ địa hạt văn chương ở cùng một thời điểm. Tôi không nghĩ rằng họ bị tụt hậu, không có khả năng tiếp cận, hiểu thấu những suy tư của giới trẻ. Lý do ở đây hoàn toàn khác, thứ văn chương mà họ đặt niềm tin vào đấy, thứ văn chương gợi hứng khởi cho các động lực của họ giờ đây đã kết thúc. Tôi cũng không dự đoán nổi sự đổi ngôi nhanh chóng đến thế của Văn chương Hàn Quốc. Những suy tư ấy một lần nữa lại thuyết phục tôi về một sự cáo chung của Văn chương.
Phần III
15. Giờ đây tôi muốn chúng ta tập trung suy nghĩ về hình thức biểu đạt đặc biệt của văn chương: Tiểu thuyết. Như tôi đã nói, văn chương xuất hiện từ rất lâu trước thời hiện đại, có nghĩa là trước khi ra đời các lý thuyết văn chương. Hình thức văn chương ra đời sớm nhất và chiếm vị trí quan trọng nhất lúc đó là Thi ca. Tiểu thuyết xuất hiện sau đó, cũng đạt được nhiều thành công nhưng vẫn không dành được nhiều sự quan tâm
16. Chỉ từ thế kỷ XVIII cùng với sự ra đời của khái niệm “Mỹ học” (esthétique) tiểu thuyết mới dần trở nên đáng chú ý. Cứ vào từ gốc latin - aesthetic nói đến một dạng triết học của cảm xúc. Trong tác phẩm Phê phán lý trí thuần túy, Kant đã sử dụng từ esthétique hoàn toàn theo như nghĩa nói trên. Ở đây đã xuất hiện một tư duy mới mẻ. Cho đến tận lúc đó, cảm xúc hay các trạng thái cảm xúc chỉ được xem như những khả năng bậc thấp của con người, bị triết học xem thường. Người ta muốn xa lánh nó để tìm tới một tư duy lý tính. Sau khi khái niệm Mỹ học ra đời, xuất hiện vấn đề làm cách nào để kết nối mỹ học với trí tuệ và đạo đức thông qua ngả đường của trí tưởng tượng, Trí tưởng tưởng - cái đối tượng trước đó luôn bị nghi ngờ là kẻ chủ mưu dẫn dắt con người đến với những ảo ảnh hay là ảo tưởng. Từ lúc đó trở đi, theo thời gian tiểu thuyết dần được thừa nhận như là một trong những khả năng sáng tạo đắt giá và dần chiếm lĩnh vị trí ngày càng quan trọng.
17. Mỹ học ra đời ở nước Anh, phát triển và bứt phá ngoạn mục trong chủ nghĩa lãng mạn Đức. Một sự trùng lặp khá kỳ lạ là ở Nhật Bản, trong cùng thời kỳ ấy đã xẩy ra một hiện tượng tượng tự. Vào nửa cuối của thế kỷ XVIII Norinaga Motoori (1730-1801) đã nhấn mạnh đến cái vị thế đứng bên trên của mono noaware (cảm xúc về các sự vật- một phương cách tưởng tượng và chia sẻ) so với những kiến thức và đạo đức Khổng giáo. Ông khẳng định rằng tác phẩm Chuyện tiếu lâm của Genji (Le Dit du Genji. 1001) dưới cái vẻ ngoài vô luân, thực ra hàm chứa một thứ đạo đức thật sự. Những tư tưởng này hoàn toàn không chịu chút ảnh hưởng nào từ Phương Tây, Sự trùng hợp và tương đồng với những thay đổi trong quan niệm của Phương Tây khi nhấn mạnh tới vai trò cảm xúc và trạng thái tâm lý có nguồn gốc từ việc xuất hiện những xã hội dân sự được kết cấu chủ yếu bởi tầng lớp thương gia và kỹ nghệ.
18. Từ một góc nhìn khác, thời kỳ này cũng đánh dấu một sự thay đổi căn bản trong cách đánh giá / nhìn nhận về tiểu thuyết. Tiểu thuyết trước đó chỉ được coi làmột phương tiện giải trí, những “gia vị” làm giầu thêm những cảm xúc thì giờ đây đã đảm nhận những chức năng “nghiêm túc” thuộc phạm trù nhận thức và đạo đức. Tiểu thuyết trở thành một phương tiện cho sự “chia sẻ trong cộng đồng “tức là một dân tộc với tư cách một cộng động cùng chung ngôn ngữ. Tiểu thuyết đóng vai trò chiếc cầu nối giai tầng trí thức với dân chúng, gắn kết các tầng lớp xã hội khác nhau nhờ vào khả năng “chia sẻ” của nó, mục đích để hình thành và củng cố những nền tảng của một dân tộc.
19. Và như thế, tiểu thuyết, một thể loại bị xem thường trước đó bắt đầu vươn lên chiếm lĩnh vị trí thống trị trong văn chương, nhưng cái giá phải trả không hề rẻ. Nếu tiểu thuyết trước đó, chỉ là một phương tiện giải trí, một thứ gia vị tinh thần, nó sẽ không cần mang theo một thông điệp của cái Đẹp. Để tiểu thuyết vượt lên trên được sự hiểu biết, có sức nặng hơn các quy tắc đạo đức, nó bắt buộc phải tạo ra những áp lực ngày càng lớn lên chính mình. Ngoài ra ở thời kỳ đầu, tiểu thuyết phải đối đầu với những công kích từ phiá Tôn giáo và Đạo đức. Những cuộc tranh luận xung quanh chủ đề “Tôn giáo và Văn chương” hay “Chính trị và Văn chương” cũng liên tục nổ ra kể từ ngày tiểu thuyết lên ngôi và bành trướng những ảnh hưởng to lớn trong xã hội.
20. Trong những cuộc tranh luận về vai trò của Tôn giáo và Văn chương, những người ủng hộ sự lên ngôi của văn chương tuyên bố rằng : văn chương thực ra, còn đậm chất tôn giáo hơn cả những thứ tôn giáo đã bị thể chế hóa, và rằng văn chương, dẫu có là hư cấu, còn phụng sự cho đạo đức nhiều hơn là những rao giảng đạo đức khô khan. Còn trong những cuộc tranh luận liên quan tới quan hệ giữa văn chương và chính trị, người ta cũng khẳng định rằng, dưới một vẻ ngoài yếu đuối, phi chính trị, không bạo lực một tác phẩm văn chương vẫn có đủ khả năng dẫn dắt người đọc đi tới những hành động cách mạng nhanh hơn và xa hơn so với sự vận động của các lựclượng chính trị, và dẫu rằng chỉ là là một sản phẩm của hư cấu, văn chương vẫn thường vẫn cấp cho người đọc những hiểu biết vượt lên trên những hiểu biết thông thường. Đó chính là những gì Sartre muốn nói khi ông khẳng định rằng “Văn học tạo ra tính khách quan của một xã hội trong trạng thái cách mạng thường trực”.
21. Giờ đây chẳng còn ai phải đứng ra bênh vực cho văn chương nữa. Đơn giản vì bâygiờ chẳng còn ai thừa thời gian để lấy văn chương làm đối tượng công kích hay cạnh tranh phạm vi ảnh hưởng. Ngay ở trong một số nước theo chủ nghĩa Mác, người ta cũng né tránh đến việc đề cập (một cách lộ liễu) chuyện văn chương phải phục tùng chính trị, phải bị chi phối bởi chính trị. Tuy nhiên mọi việc thực ra không hề đơn giản như vẻ bề ngoài nói trên. Sự cải thiện vị trí của văn chương gắn kết với những thay đổi về đạo lý mà người ta đã đầu tư cho nó. Sau khi được giải phóng khỏi mọi định kiến, mọi lực cản, sau chiến thắng lẫy lừng khi đánh chiếm được cái vị trí độc tôn trong văn học, tiểu thuyết giờ đây có nguy cơ "suy đồi" trở lại là một thứ phương tiện giải trí đơn thuần. Với tôi, điều đó cũng là một điều tốt. Tôi luôn phản đối mọi cố gắng gượng ép cố biến tiểu thuyết thành một sản phẩm mỹ học hay chính trị. Thành thực mà nói, cuộc sống có nhiều thứ quan trọng hơn văn học. Với tôi, Tiểu thuyết, thành trì của văn chương hiện đại, là một dạng thức mang tính lịch sử và đến giờ phút này nó đã hoàn thành vẻ vang cái sứ mệnh của mình.
(Còn tiếp)
Dương Thắng dịch từ tiếng Pháp. Nguồn: KôjinKaratani, « La fin de la littérature moderne », Fabula-LhT, n° 6,« Tombeaux de la littérature », mai 2009, URL :http://www.fabula.org/lht/6/karatani.html, page consultée le 20 août 2015