Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Khoa học > Ngôn ngữ > ĐỜI SỐNG TINH THẦN VÀ NGHỆ THUẬT: NGÔN NGỮ

Văn minh Việt Nam (Phần I, Ch.12)

ĐỜI SỐNG TINH THẦN VÀ NGHỆ THUẬT: NGÔN NGỮ

Nguyễn Văn Huyên, La Civilisation Annamite 1939

Thứ Bảy 31, Tháng Mười Hai 2016, bởi Cong_Chi_Nguyen

Trích đăng Phần I (Ngôn Ngữ), chương 12, sách “Văn minh Việt Nam” của Nguyễn Văn Huyên, do Nhã Nam và NXB Hội Nhà Văn xuất bản 2016. Bản thảo "La Civilisation Annamite" bằng tiếng Pháp hoàn thành từ năm 1939 nên một số hiểu biết đã cũ.

Sự hình thành tiếng Việt

Tiếng Việt thuộc ngữ tộc Nam Á. Ngữ tộc này được nói từ Việt Nam ở phía đông tới cao nguyên Chota Nagpour (thuộc Đông Ấn Độ) ở phía tây. Có lẽ tiếng Việt đã được chồng lên những ngôn ngữ cổ hơn mà ngày nay đã mất, chỉ còn lại một vài tàn dư đây đó trong các phương ngữ Thái, Mường hoặc các phương ngữ vùng cao xứ Trung kỳ. Dù sao, trong những thiên niên kỷ gần đây, nó đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của những thứ tiếng khác nhau như: Hán, Mã Lai, Ariăng… là những ngôn ngữ đã mang đến cho nó những yếu tố mới. Thí dụ, các cố gắng không mệt mỏi của linh mục Souvignet đã phát hiện có một quan hệ chắc chắn giữa tiếng Việt với tiếng Mã Lai. Trong tiếng Mã Lai là một ngôn ngữ có tiền tố và hậu tố, người ta thấy nhiều từ có thể quy ra từ Việt: bango (con cò bạch), mangkok (cái cốc), talang (xóm, làng), tương ứng với cò, cốc, làng trong tiếng Việt, darat: đất, sudis (ngày xưa): xưa, màta: mắt, suki (súc miệng): súc…

Tiếng Việt cổ cũng có tiền tố. Chỉ cần đi ngược lên thế kỷ XVII để thấy vài dấu vết. Linh mục Alexandre de Rhodes, trong cuốn từ điển của ông xuất bản năm 1649, có ghi ba nhóm phụ âm đầu: bl, ml, tl, đã được thu gọn từ thời kỳ đó (blâu: trâu, blời: trời). Các thổ ngữ Mường, được nói ở Bắc kỳ và Trung kỳ, và có thể coi như một hình thức tiếng Việt cổ, hiện nay còn giữ ba nhóm phụ âm đầu: kl, tl, pl (chẳng hạn, t’lâu: trâu). Ông Przyluski nghĩ rằng, khi so sánh tiếng Việt với tiếng Mường thì thấy rằng tiếng Việt cổ có ít nhất bốn tiền tố k, t, p, m. Trong tiếng Việt hiện đại, hệ thống tiền tố này đã mất hẳn. Nó được thay bằng những từ chủng loại làm cho đa số khái niệm được biểu hiện trong tiếng Việt bằng những từ kép. Tiếng Việt cổ như vậy có quan hệ chặt chẽ với các tiếng Môn-Khmer, là những ngôn ngữ tạo ra những từ phái sinh bằng cách thêm tiền tố và trung tố.

Ông Henri Maspéro nghĩ đến việc gắn tiếng Việt với các ngôn ngữ Thái, mà nét quan trọng nhất là hệ thống thanh cũng tạo ra cơ sở của hệ thống ngữ âm tiếng Việt. Theo ông, thì hình như tiếng Việt hiện đại là kết quả của sự pha trộn rất phức tạp đủ loại phương ngữ. Do đã dần dà hình thành, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau của nó, giới hạn phía bắc của các ngôn ngữ Môn-Khmer, giới hạn phía đông của các ngôn ngữ Thái, và giới hạn phía nam của tiếng Hán, ngôn ngữ Việt đã chịu ảnh hưởng của tất cả các ngữ tộc này. Tiếng tiền-Việt ra đời từ sự hợp nhất một phương ngữ Môn-Khmer, một phương ngữ Thái và có lẽ cả một ngôn ngữ thứ ba hiện giờ vẫn chưa được biết rõ, gắn với ngôn ngữ thứ ba này là những từ không thể quy thành tiếng Môn-Khmer, tiếng Thái cũng như tiếng Hán. Nhưng theo ý ông, thì thứ tiếng có ảnh hưởng ưu trội tạo cho tiếng Việt hình thức hiện đại của nó chắc chắn là một ngôn ngữ Thái, và tiếng Việt phải gắn với ngữ tộc Thái.

* * *

Hiện nay, trên lãnh thổ Việt Nam hình thành ba dạng tiếng Việt khác nhau chủ yếu ở chỗ nhấn mạnh các thanh và các phụ âm cũng như một vài đặc điểm rất nhỏ trong từ vựng và cú pháp. Tiếng Bắc kỳ và bắc Trung kỳ được đặc trưng bởi sáu thanh cổ (bằng, sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã) cũng như các phụ âm cuối, nhưng lại có đặc trưng là sự yếu đi và lẫn lộn giữa các phụ âm đầu. Người Bắc kỳ khó phân biệt âm tr với ch, r với d, s với x. Ở Nam kỳ và phía nam Trung kỳ, nơi có xu hướng rõ là lẫn lộn các âm cuối n và ng, c và t, nhưng người ta vẫn duy trì được tốt hơn sự phân biệt các phụ âm đầu, nhưng bên cạnh lại có sự biến đổi nhất định của âm ph và y. Tại Trung kỳ, từ Đà Nẵng đến Nghệ An, ngôn ngữ, rõ ràng có khuynh hướng cổ, giữ cả được sự phân biệt các phụ âm đầu lẫn sự phân biệt các phụ âm cuối. Về ngữ điệu, ở phía nam Thanh Hóa cho đến tận Trung kỳ, hỏi và ngã bị lẫn lộn, và đôi khi cả ngã và nặng, như vậy rút hệ thống các thanh còn lại năm.

* * *

Dù thế nào, tiếng Việt cũng chịu ảnh hưởng mạnh của tiếng Hán, nhất là trong một nghìn năm Bắc thuộc. Các từ gốc Hán ước tính là thâm nhập từ vựng Việt đến một phần ba. Trong số này chẳng những có từ đơn mà cả từ kép cũng như những thành ngữ trọn vẹn.

Lối nói dân gian đậm đà màu sắc do những từ tượng thanh và các phó từ miêu tả. Hơn nữa, nó còn véo von, và trong cái nền cổ nhất của nó, lối nói này mang hình thức những đoạn thơ lấy trong đó sự diễn cảm được thực hiện bằng những từ được đưa vào trong những cái khuôn đối nhau, và nối với nhau bằng cách láy phụ âm. Người ta thường tăng thêm sức mạnh cho suy luận của mình bằng những so sánh vay mượn ở các yếu tố tự nhiên: nông dân ta so sánh, bằng một óc quan sát kỳ lạ, các sự việc trong cuộc sống với các biểu hiện của tự nhiên.

Văn phong Trung Hoa, nhất là văn phong sân khấu, đã ảnh hưởng nhiều đến ngôn ngữ văn học Việt Nam. Ngôn ngữ này từ lâu bị gạt xuống hàng ngôn ngữ tầm thường, chưa bao giờ được trau chuốt một cách hệ thống, mặc dầu có vài thử nghiệm lẻ loi và không có tiền đồ, chẳng hạn như thử nghiệm của Hồ Quý Ly cuối thế kỷ XIV, đã thử dịch Kinh Thi, thử nghiệm của Phùng Khắc Khoan, Vũ Thanh, Nguyễn Bá Lân, Lê Quý Đôn dưới triều Lê định dịch và bình chú kinh điển Trung Hoa bằng tiếng Việt; của Nguyễn Huệ, vua nước Việt Nam từ 1788 đến 1792, đã quyết định cho biên soạn bằng tiếng Việt các văn thư hành chính, và thành lập Sùng chính thư viện, chịu trách nhiệm soạn thảo sách bằng ngôn ngữ dân tộc; của người sáng lập nhà Nguyễn hiện thời đã đưa vào các khoa thi một bài thi bằng tiếng Việt.

Thỉnh thoảng, một số tác giả nghiệp dư, trong những lúc thư nhàn, đã viết một số tác phẩm; nhất là thơ, bằng tiếng Việt. Bắt chước lối tu từ Trung Hoa, họ nhét đầy tác phẩm của mình những điển cố văn học, lịch sử và những biểu tượng. Văn xuôi của họ rất có vần điệu: câu nào cũng gồm những nhóm ít nhiều biền ngẫu, cấu tạo từ những khuôn mẫu cứng nhắc ba bốn chữ một.

Tuy nhiên, do trình độ rất uyên thâm của họ về văn hóa Trung Quốc, các nhà văn này đã để lại những tác phẩm tiếng Việt đóng góp không ít vào các việc tạo cho tiếng nói dân tộc mà sự vững chắc và tính độc đáo khiến nó chống chọi được với thờ ơ có tính toán của đa số nhà nho cũng như với uy thế tuyệt đối của nền văn học Trung Hoa rực rỡ và đồ sộ. Một số trong những tác phẩm này là những công trình văn học thực sự mà người có học vấn kính nể, và nông dân thất học của ta truyền miệng, thí dụ như: Thi tập của Lê Thánh Tôn, Bạch Vân thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, các áng văn xuôi có vần điệu của Lê Quý Đôn, Gia huấn ca của Nguyễn Trãi, Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, Cung oán của Ôn Như Nguyễn Gia Thiều, Ngọa Long ngâm của Đào Duy Từ, thơ của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Trần Kế Xương, Thúy Kiều của Nguyễn Du, v.v.

Từ khoảng ba chục năm nay, nhờ sự phát triển của nghề in đã cho ra đời một nền báo chí ngày càng đa dạng, và nhờ việc dạy tiếng Pháp rộng rãi trong các trường học, tiếng Việt chẳng những phong phú thêm, mà còn được đổi mới. Ngay từ đầu thế kỷ, với sự du nhập của văn minh phương Tây, người ta đã cảm thấy cần phải làm cho tiếng mẹ đẻ, cho tới lúc đó đủ để biểu thị các xúc động và tình cảm, thích ứng với những đòi hỏi mới mà những tiến bộ hiện đại đặt ra. Khoảng năm 1910, một nhóm người Việt còn ra sức để nâng tiếng nói của quê hương lên tầm các ngôn ngữ văn minh. Từ bấy trở đi, nhờ những cố gắng kết hợp và đa dạng của các nhà văn như Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn Bá Học, Phan Kế Bính, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Lê Dư, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trọng Thuật, Khái Hưng, v.v. tiếng Việt trở thành một ngôn ngữ mới. Đặc biệt Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh, cả hai người đều đã hấp thụ ba nền văn hóa: Việt, Hán và Pháp, đã dùng những tạp chí như Đông Dương tạp chí, Nam phong, Trung Bắc tân văn, giàu về chất liệu và được chính phủ ủng hộ, tạo cho tiếng Việt chẳng những một đà thúc đẩy mới, mà cả một uy tín mà cho đến lúc đó đã không được thừa nhận.

Thứ tiếng hiện đại này đã được lợi thêm nhiều về tính logic, vẻ thanh lịch, sự trong sáng và rõ ràng. Nó trở nên uyển chuyển hơn, nhiều vẻ hơn, có khả năng hơn để diễn đạt các tư tưởng mới cùng các khái niệm trừu tượng. Nó phong phú thêm nhờ vay mượn một số lớn từ của tiếng Trung Hoa và tiếng Pháp. Từ vựng các ý niệm, các khoa học đạo đức, chính trị và triết học nói chung tiếp tục được hình thành bằng những chữ Hán phiên âm sang tiếng Việt. Trái lại, có nhiều từ ngữ vay mượn ở tiếng Pháp bằng cách dịch hay phiên âm, để tạo ra từ vựng của các khoa học cụ thể, vật lý, hóa học, tự nhiên, cũng như các danh từ riêng về lịch sử và địa lý.

Tiếng Việt được cứu thoát như vậy khỏi sự lãng quên trong các thế kỷ qua bởi các tác phẩm, hiếm hoi nhưng hoàn hảo, của các nhà nho tinh tế nước ta, được làm giàu thêm và củng cố bởi các thế hệ hiện đại, ngày nay trở thành ngôn ngữ văn minh chính của nước Việt Nam.

Các hệ thống chữ viết – Ngôn ngữ bình dân

Tiếng Việt có hai thứ chữ viết: chữ quốc ngữ, dựa trên chữ cái Latinh, do các nhà truyền giáo của đạo Cơ Đốc làm ra; thứ chữ khác cổ hơn, chữ nôm, xuất xứ từ chữ Hán.

Chưa thể xác định được thời kỳ ra đời chữ nôm. Theo Trương Vĩnh Ký, một tác giả cuối thế kỷ XIX, thì thứ chữ này có từ trước thời Sĩ Nhiếp cai trị Giao Chỉ, khoảng đầu thế kỷ III. Theo cuốn Đại Nam quốc ngữ của Văn Đa cư sĩ, sống ở thời Tự Đức (giữa thế kỷ XIX), thì chính Sĩ Nhiếp làm ra chữ nôm để dịch sách kinh điển của người Hán nhằm truyền bá văn hóa Trung Hoa; ông quan cai trị nhà nho này, theo truyền thuyết, đã phải dừng lại ở mấy chỗ trong công việc do thiếu những từ Việt để diễn đạt như từ thư cưu chẳng hạn, tên một con chim, hay từ dương đào, tên một quả cây. Nhưng các bằng chứng này chẳng dựa trên một tư liệu lịch sử nào. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ VIII, hai chữ nôm là bố (cha) và cái (mẹ) được truyền đến chúng ta, trong danh hiệu Bố Cái đại vương của Phùng Hưng, người đã chiếm được An Nam đô hộ phủ năm 791. Ở thế kỷ X, người sáng lập triều Đinh đặt cho đất nước mới thoát nạn Bắc thuộc cái tên chữ nôm là Cồ, mà ông xếp chen vào trong Đại Cồ Việt.

Nhưng sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục đã cung cấp bằng chứng xác đáng nhất. Trong sách đó nói rằng, năm 1282, một con cá sấu xuất hiện ở sông Hồng, người ta xua đuổi nó bằng cách ném xuống sông một lá bùa do Nguyễn Thuyên viết. Bắt chước bậc danh gia Hàn Dũ của Trung Hoa, ông lấy họ vị này và tự gọi là Hàn Thuyên. Lời bình chú nói thêm rằng, Hàn Thuyên rất giỏi làm thơ bằng tiếng Việt, và nhiều người bắt chước ông làm. Rất có thể, ở thời kỳ này, chữ nôm đã thông dụng. Các nhà nho Việt Nam còn dạy rằng, lá bùa của Thuyên chỉ là một bài tế, gọi là “Văn tế cá sấu”. Ngày nay, bài văn tế này được coi là công trình đầu tiên của văn học tiếng Việt.

Dù sao, các tác phẩm của người Việt viết bằng tiếng nói dân tộc cũng phát triển từ thế kỷ XIV trở đi. Năm 1306, nhân dịp thành hôn của công chúa Huyền Trân nước Việt, nhiều bậc tài danh ở triều đình và nơi thôn dã đã làm thơ tiếng Việt, trong đó họ chế giễu cuộc hôn phối này của người con gái lừng danh nhất đất nước văn hiến, “viên ngọc huyền”, với một kẻ “man di”, dù đó là vua Champa. Cũng thời kỳ đó, có nhà bác học Nguyễn Sĩ Cố chịu trách nhiệm bình giảng Ngũ kinh; đã thành công ở các bài thơ và văn xuôi có vần điệu bằng tiếng Việt.

Chứng cứ cụ thể cổ nhất về sự tồn tại của chữ nôm là một bài văn khắc ở thế kỷ XIV, tìm thấy ở Hồ Thành Sơn (tỉnh Ninh Bình), trong đó có hai chục tên làng, xóm, v.v. bằng chữ nôm. Và cuốn sách cổ nhất chúng ta nắm được bằng chữ nôm là Gia huấn ca của Nguyễn Trãi, ở thế kỷ XV.

* * *

Chữ nôm chẳng phải phóng túng như ta tưởng, theo những quan sát hời hợt của một vài tác giả. Nó được quy định bằng những luật lệ chặt chẽ. Đa số từ ngữ thông thường đều có một lối viết hoàn toàn xác định. Nhiều từ khác có một cách viết chính quy do sự phổ biến của các áng thơ lớn được dân gian ưa thích như Thúy Kiều, Lục Vân Tiên, Phạm Công, Phan Trần, Cung oán, v.v. đã được in và được hầu như toàn dân đọc.

Chữ nôm bắt nguồn từ chữ Hán. Có sáu kiểu tạo thành:

Những chữ Hán không biến đổi, chỉ được phát âm theo lối Việt (lối phát âm gọi là Hán-Việt). Thí dụ: quan, dân.

Những chữ Hán phát âm theo lối Hán-Việt, dùng để diễn đạt các từ cùng nghĩa và có âm gần với Hán-Việt. Thí dụ: chữ côi (Hán-Việt), nghĩa là “mồ côi”, diễn đạt từ côi cùng nghĩa trong tiếng Việt.

Những từ Hán biến đổi sâu sắc hơn, thí dụ như ở các từ gia (Hán-Việt) và lễ (Hán-Việt) biểu thị những từ nhà và lạy trong tiếng Việt.

Những chữ do người Việt đặt ra, gồm hai yếu tố Hán ghép với nhau, một yếu tố dùng để chỉ cách phát âm, một để chỉ nghĩa. Thí dụ, chữ đến gồm chữ chí (nghĩa là đến) và chữ điển (luật lệ), chỉ lối phát âm.

Những chữ do người Việt đặt ra, biểu đạt hình ảnh hay biểu tượng của vật mà chúng chỉ. Thí dụ, từ trời gồm hai chữ Hán: thiên (trời) và thượng (trên), biểu thị ý nói rằng trời ở bên trên chúng ta, và là một bản thể cao siêu. Đặc biệt, loại từ này có một cách viết cố định.

Những từ gồm một chữ Hán chỉ cách phát âm, thêm vào đó ở bên trái là một nét của hệ thống ngữ âm Hán, chỉ loại vật bao gồm những từ này. Thí dụ, nói gồm chữ nội và chữ khẩu (miệng); cài gồm chữ kỳ và chữ thủ (bàn tay).

Tuy vậy, chữ nôm mặc dầu có tính cố định nào đó trong cách biểu thị, nhưng vẫn cho ta thấy nhiều sự phức tạp rất lớn cùng những khó khăn nghiêm trọng do sự phát triển kém của nghề in cũng như do sự ngờ vực của các vua chúa Việt Nam, thấy trong sự truyền bá loại chữ viết này một yếu tố gây hỗn loạn trong hệ thống giáo dục của nhà nước. Hơn nữa, việc dùng chữ nôm đòi hỏi phải biết trước phần nào chữ Hán. Điều đó đã là một trở ngại cho sự phát triển chữ nôm rồi.

* * *

Những khó khăn cụ thể này đã khiến sáng tạo chữ quốc ngữ ở thế kỷ XVI, thứ chữ được tạo ra bằng vần chữ cái Latinh, thêm vào đó một số dấu để biểu thị các thanh, cũng như vài phụ âm để diễn đạt các âm đầu chỉ riêng có ở tiếng Việt. Thứ chữ này do các nhà truyền giáo châu Âu đặt ra. Họ muốn tìm một công cụ thuận lợi để truyền đạo tại nước này. Hệ thống quốc ngữ hiện nay thông dụng tại Việt Nam chẳng phải là công trình trọn vẹn của một người và cũng không phải đã được làm liền một lúc. Tuy vậy, chính linh mục Alexandre de Rhodes (1591-1660) là người đầu tiên có công sửa lại và sắp xếp hệ thống được sử dụng ở thời của ông, tạo cho nó một hình thức phổ biến trong những cuốn sách ông xuất bản năm 1651, như cuốn sách giáo lý nhan đề Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu rửa tội mà vào đạo thánh Đức Chúa blời, và nhất là cuốn Từ điển Việt-Bồ-La.

Thứ chữ viết mà linh mục Alexandre de Rhodes ấn định đã có những thay đổi ở nửa sau thế kỷ XVII và ở thế kỷ XVIII. Những thay đổi này đã được giám mục Pigneau de Béhaine thu nhận ở hai cuốn tự điển mà giám mục Tabert xuất bản năm 1838 (Từ điển Việt – Latinh).

Theo lời ông Phạm Quỳnh, thì chữ quốc ngữ ở dạng hiện thời đã được nhận và sử dụng là “công cụ kỳ diệu để giải phóng trí tuệ”. Tại Nam kỳ, vùng đất chịu ảnh hưởng của Pháp ngay từ giữa thế kỷ XIX, và ở đấy giai cấp đề kháng xã hội là giai cấp văn thân không vững mạnh bằng các “xứ” Bắc, việc sử dụng thứ chữ viết Rôman này đã được phổ biến từ sớm một cách mau chóng, nhờ những cố gắng của Trương Vĩnh Ký, Paulus Của. Các nhà văn Việt Nam này đã đóng góp nhiều vào việc truyền bá hệ thống phiên âm mới đó bằng những xuất bản phẩm dành cho trường học, cũng như bằng việc xuất bản truyện, thơ và bài hát dân gian phục vụ công chúng rộng rãi đang thèm khát những tài liệu để đọc giải trí. Mặc dầu những cố gắng của họ, bản thân quốc ngữ chỉ phát triển chậm chạp do sự thiếu nền tảng văn hóa của dân miền Nam mới được triều đình Việt Nam định cư.

Ở Bắc kỳ và Trung kỳ, sau một thời gian thù địch ngắn ngủi của các văn thân, việc dùng quốc ngữ đã phát triển nhanh chóng không ngờ, nhất là từ năm 1900. Chẳng những sách sơ đẳng phổ biến khoa học dùng cho các trường học công được xuất bản, và những áng thơ lớn bằng chữ nôm được phiên âm, mà các nhà nho cải lương còn bắt đầu dịch tác phẩm của các văn hào lớn của châu Âu mà đã được dịch sang tiếng Trung Hoa. Tiếng Việt cũng do đó mà có sự chuyển biến sâu sắc.

Từ sau năm 1919, và nhất là từ năm 1920, phong trào đổi mới tiếng nói dân tộc, do tầng lớp thượng lưu mới, được đào tạo ở các trường Pháp, được các nhà nho thức thời giúp đỡ, tiến hành, đã tạo cho chữ quốc ngữ một đà phát triển kỳ diệu.

Bên cạnh những ấn phẩm bằng chữ nôm ngày càng suy sụp, các tác phẩm quốc ngữ tăng lên nhiều, nhiều báo và tạp chí bằng tiếng Việt được xuất bản và hấp dẫn một số công chúng ngày càng đông, do những chủ đề mới mà chúng bàn đến, và những tư tưởng tiến bộ mà chúng truyền bá.

Ngôn ngữ bác học: chữ Hán

Nếu tiếng Việt phải đợi cho đến thế kỷ XIX mới trở thành một ngôn ngữ văn minh, đó chính là vì chữ Hán đã là ngôn ngữ bác học và chính thức duy nhất trong gần hai nghìn năm trời.

Chữ Hán được dùng từ thời rất xa xưa tại Bắc kỳ. Viên tướng Triệu Đà người Trung Hoa, một nhà nho thâm thúy và môn đồ tuyệt đối trung thành của đạo Khổng, đã chiếm được nước này vào đầu thế kỷ II trước Công lịch, đã khuyến khích sự du nhập chữ Hán. Đầu thế kỷ I sau Công lịch, dưới thời kẻ tiếm ngôi là Vương Mãng, rất nhiều gia đình quan chức người Hán và nho sĩ đã sang tị nạn ở Giao Chỉ, bên cạnh viên quan cai trị Tích Quang người Trung Hoa, người đã phát triển tại đây việc giảng dạy các quy tắc đạo đức Nho giáo. Trường học đã được các nhà bác học tị nạn này thành lập và khuyến khích. Ở thế kỷ II, hai người Việt Nam là Lý Tiến và Lý Cầm sang Trung Hoa thi đậu cao, có lẽ đã kích thích các đồng hương của mình đua nhau tìm nghiên cứu văn học Trung Hoa. Đầu thế kỷ III, viên quan cai trị Sĩ Nhiếp thúc đẩy mạnh việc nghiên cứu kinh điển Nho giáo và tạo một ngành học mới, xác nhận uy tín của chữ Hán tại Việt Nam.

Từ thế kỷ X, sau khi Việt Nam giành được độc lập, người ta vẫn tiếp tục phát triển chữ Hán, do các đòi hỏi của bang giao, và để làm công cụ văn hóa. Thoạt đầu, các nhà sư góp phần lớn vào sự nghiệp phát triển việc học chữ Hán. Hầu như tất cả các nhà nho lớn ở thời kỳ này đều là nhà sư. Một số trong bọn họ giữ được chức vụ cao ở triều đình: nhà sư Ngô Chân Lưu được Đinh Tiên Hoàng phong làm Đại quốc sư và Lê Đại Hành đã giao cho ông làm một bài thơ tặng sứ giả Trung Hoa. Một nhà sư khác tên là Thuận đã thay mặt nhà vua tiếp sứ thần của Trung Hoa.

Ở thời Lý, việc học chữ được nhà nước tổ chức: năm 1070 vua Thánh Tôn thành lập Văn miếu ở Hà Nội để thờ Khổng Tử cùng môn đồ, và mở trường để dạy thái tử. Năm 1076, vua Nhân Tôn lập Quốc tử giám, và mở khoa thi đầu tiên để tuyển chọn quan lại. Dưới thời nhà Trần, những trường mới đã được mở tại kinh đô cùng các trung tâm quan trọng. Quốc tử giám mở rộng cửa cho mọi người; các bậc đại nho dạy văn chương Trung Hoa ở các trường tư. Ở cuối thế kỷ XIV, Hồ Quý Ly, nhằm thúc đẩy việc dạy dỗ trẻ em nghèo, cho mở các trường sơ cấp ở tất cả các trấn trong nước.

Ở thời Lê, việc học chữ đạt đỉnh cao nhất. Các trường học được cải tổ, những trường mới được mở. Chương trình học được sửa đổi. Đặc biệt dưới triều vua Lê Thánh Tôn (1460-1497), các thư viện được lập ra, và một cơ quan chuyên môn được tổ chức, chịu trách nhiệm giảng dạy tại các trường cao học, để nghiên cứu kinh điển. Quốc tử giám được mở rộng bằng cách xây thêm phòng học, và ba loạt nhà, mỗi loạt có 25 gian, cho sĩ tử được hưởng học bổng cư trú. Để kích thích sự ganh đua của sĩ tử, tên tuổi những người đậu tiến sĩ được khắc trên các bia đá hiện nay còn dựng tại Văn Miếu Hà Nội.

Từ Bắc kỳ và phía bắc Trung kỳ, bắt đầu từ thế kỷ XVI, việc học lan đến phía nam Trung kỳ và Nam kỳ, nhờ các nho sĩ Việt Nam và Trung Hoa được nhà Nguyễn thu hút. Minh Mạng (1820-1841), ông vua anh minh và có học vấn, phát triển nhiều và tổ chức mạnh việc học, tạo cho văn chương chữ Hán suốt thế kỷ XIX cái uy tín mà nó vốn có dưới triều Lê. Chỉ từ năm 1915, với sự xóa bỏ các trường cũ, việc phát triển dạy tiếng Pháp và tiếng Việt, xóa bỏ hệ thống thi cử cũ, chữ Hán mới bị bỏ. Một số giới tìm cách làm cho chữ Hán có lại cái tầm quan trọng mà nó đã mất. Nhưng tiếng Pháp và tiếng Việt đã giành được chỗ đứng; hơn thế nữa, hai thứ tiếng này đều, vì những lẽ khác nhau, đã trở thành những ngôn ngữ văn minh đối với cả nước.

* * *

Dù thế nào đi nữa, chữ Hán đã có ở Việt Nam vai trò nổi bật. Nó đã để lại những dấu vết không phai mờ trong tất cả các thể chế và các biểu hiện trí tuệ của Việt Nam. Tất cả những người có học vấn, tất cả các công chức, trong khi nói tiếng Việt như đồng hương họ, vẫn sử dụng thông thạo chữ Hán trong các bài viết, thư từ cũng như trong giấy tờ chính thức hay nửa chính thức. Họ học chữ Hán từ lúc còn nhỏ. Tiếng Việt chỉ được dùng trong học tập để dễ hiểu hơn lời bình chú các sách kinh điển.

Điều đó khá dễ hiểu. Nước này có quan hệ thường xuyên với nước Trung Hoa có nền văn minh rất cao và một nền văn học đồ sộ. Nền văn minh dân tộc không đủ rộng để tự riêng mình cung cấp cho tư duy của người có học vấn. Vì vậy, chẳng gì đơn giản đối với người Việt Nam có tài năng hơn là học chữ Hán và vay mượn cùng với nó các hình thức và phạm trù của văn minh Trung Hoa. Văn phong họ sử dụng cũng là văn phong Trung Hoa, đầy những trích dẫn, ám chỉ, ẩn dụ, ngoa dụ, lối nói dí dỏm. Vốn văn học này được lấy từ trong kho tàng đồ sộ những điển cố và lời ám chỉ lịch sử mà ngôn ngữ và văn học Trung Hoa cung cấp cho họ.

Sự tiếp thụ một ngôn ngữ văn minh của nước ngoài đã không thể không phát huy ảnh hưởng sâu sắc đến chính tiếng Việt. Việc dùng các yếu tố Trung Hoa trong tiếng Việt nhiều ít có khác nhau tùy theo trình độ Hán học của mỗi người. Chẳng những từ vựng có thêm rất nhiều từ Trung Hoa, mà ngay cả văn phong cũng giàu thêm những nhịp điệu, lối viết, vay mượn từ văn học cổ điển Trung Hoa.

* * *

Kết quả sự tiếp xúc lâu dài của tiếng Trung Hoa và tiếng Việt là tạo ra một ngôn ngữ văn học mới, khác với tiếng Việt nhưng cũng không phải hoàn toàn là ngôn ngữ viết cổ điển của Trung Hoa, mà ta gọi là ngôn ngữ Hán-Việt. Chưa thể xác định được những tính cách chủ yếu của thứ ngôn ngữ này. Dù sao, các nhà nho nước ta cũng để lại những tác phẩm bằng chữ Hán-Việt có cảm hứng, có thi vị thanh tao và sự việc phong phú hơn hẳn các tác phẩm bằng tiếng Việt. Có những tập thơ hoặc văn vần, những hồi ký, biên niên, sách pháp điển, sách lễ nghĩa, văn bia… Ông Lê Thước viết rằng, hầu như chỉ riêng các tác phẩm đó cũng đã là tất cả gia tài trí tuệ của người Việt. Tất cả quá khứ của Việt Nam phản ánh trong đó. Tất cả ý thức dân tộc hiển hiện ở đấy với những ngày vinh quang hay tang tóc, những niềm vui hay nỗi buồn. Những biến loạn chính trị, những cuộc ngoại xâm, như của quân Minh ở thế kỷ XV, các thiên tai đã hủy hoại hầu hết vốn cũ của nền văn học này. Từ thời Lê Đại Hành (cuối thế kỷ X) chỉ còn truyền đến chúng ta vài dư âm của những áng thơ mang cảm xúc nhẹ nhàng của các nhà sư Pháp Thuận và Khuông Việt. Từ thời Trần còn lại cho chúng ta vài mẩu của nền văn học sôi sục lòng yêu nước và khỏe khoắn về văn phong phản ánh đúng thời đại hiển hách chiến công này: như “Hịch tướng sĩ văn” của Trần Quốc Tuấn, bài thơ “Hoành sáo giang sơn” của Phạm Ngũ Lão, bài “Ngọc tỉnh liên phú” của Mạc Đĩnh Chi, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, thơ của Trương Hán Siêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Biểu, v.v.

Thời đại rực rỡ của nhà Lê để lại cho chúng ta một nền văn học nhiều màu vẻ hơn, trong đó ta thấy, bên cạnh các tác phẩm có cảm hứng rất thanh cao, những bài văn phản ánh một sự uyên bác lớn, như thơ của Lê Thánh Tôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, các bộ sử của Lê Quý Đôn, Ngô Sĩ Liên, Phan Phù Tiên, Vũ Quỳnh, v.v.

Dưới thời Nguyễn, nhờ sự khuyến khích của các vua có nền tảng học vấn rộng như Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, những pho sử ký hay đã ra đời, như Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú, Gia Định thông chí của Trịnh Hoài Đức, cùng các sưu tập sách lớn của Quốc sử quán. Thời kỳ này cũng có những tác phẩm có cảm hứng đầy cá tính và mới mẻ, như của Phạm Đình Hổ, Cao Bá Quát, Nguyễn Siêu, Phạm Quý Thích, v.v.