Trang nhà > Văn chương > Cổ điển > YÊN ĐÀI THU VỊNH - 29 bài thơ về mùa thu Bắc Kinh (1)
ĐOÀN NGUYỄN TUẤN (1750—?)
YÊN ĐÀI THU VỊNH - 29 bài thơ về mùa thu Bắc Kinh (1)
(phần đầu)
Thứ Hai 13, Tháng Ba 2017, bởi
Đoàn Nguyễn Tuấn đi sứ Trung Quốc năm 1790 trong sứ bộ Tây Sơn. Sau trận Đống Đa, nhà Thanh phải vất vả, hao tổn khá nhiều vàng bạc để tiếp rước, phục dịch ông vua Quang Trung giả, do người cháu vua là Phạm Công Trị đóng vai, và hoàng tử Nguyễn Quang Thùy. Một sứ bộ 158 người đông đảo chưa từng thấy trong lịch sử, có cả một ban hát bộ 10 người và cống phẩm còn có hai con voi đực. Các đoàn sứ bộ bình thường chỉ khoảng 30 người. Thời xưa quan niệm thời chiến dùng Võ, thời bình dùng Văn. Trên trận tuyến Thi Ca, Đoàn Nguyễn Tuấn là một thi tướng tài năng dưới trướng Chánh sứ Phan Huy Ích, khiến các quan Trung Quốc nể phục. Thơ Đoàn Nguyễn Tuấn được chép trên vách Hoàng Hạc Lâu. Không ngại ngùng trước bài thơ kiệt tác Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, mà thi hào Lý Bạch phải thán phục: “Trước mắt có cảnh không tả được, Vì thơ Thôi Hiệu ở trong đầu”. Đoàn Nguyễn Tuấn viết luôn bốn bài Vịnh Hoàng Hạc Lâu. Một bài được Chánh sứ Phan Huy Ích duyệt và cho chép lên vách Hoàng Hạc Lâu.
Ngày xưa tại các nước Đông Á: Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên thi ca là một phương tiện để kẻ sĩ bồi dưỡng nhân cách và tài năng. ‘Xem văn biết người’, do đó thi, phú, chiếu, biểu, văn sách... được dùng làm thi cử để xem xét chí khí, học vấn, tài năng kẻ sĩ. Khi đi sứ, họ là những thi tướng trên mặt trận văn hóa. Làm thơ khi đi sứ không phải là ‘chuyện một mình một ngựa bầu rượu túi thơ’ hay làm thơ ‘để làm sang’, mà phải nhanh tay lẹ trí thù tiếp ứng đối trước bàn tiệc, đáp lễ thơ tặng của vua quan Trung Quốc, dùng thi ca để kết bạn tình hữu nghị với người đồng sự giao tiếp, trước một di tích thắng cảnh, người thơ phải thông thái thi ca Trung Quốc, điển tích thắng cảnh... và phải chứng tỏ nước mình là một nước có văn hóa để không bị cười chê là man di kém cỏi, dốt nát. Đi sứ triều cống cũng không phải là chuyện nộp thuế, vì phần ban thưởng của vua quan Trung Quốc cũng không phải là ít. Tùy theo tài năng các sứ thần ứng đối thi ca, phần quà tặng của vua, quan Trung Quốc cũng không kém phần giá trị.
Đoàn Nguyễn Tuấn đã chứng tỏ bản lĩnh đó, ông được Bùi Ứng Thắng một vị y quan Trung Quốc khen ngợi làm thơ ca tụng: Tài tình duy ngã độc tri quân (Bậc người tài tình chỉ có tôi là biết ông). Các sứ thần Triều Tiên cũng đọc thơ và ca ngợi. Một lần qua thành Trịnh Châu đến bến đò sông Trăn Vị, xe ngựa của Đoàn Nguyễn Tuấn bị ngã lăn nhào, bùn đất lấm cả giày áo, ông bị đau khắp mình phải nhờ lương y cứu chữa, có lẽ ông quen thân Bùi Ứng Thắng lúc này... Đến Bắc Kinh vào mùa thu, Đoàn Nguyễn Tuấn đã viết 29 bài thơ tứ tuyệt vịnh cảnh vật mùa thu ở Yên Kinh. Chùm thơ này được Bùi Ứng Thắng người Cát Thủy khen ngợi và hai người trở thành bạn tâm giao.
Thơ nguyên tác chữ Hán, tôi xin dịch thơ toàn bộ 29 bài tứ tuyệt để người đời nay có thể thưởng thức tài năng thi ca Đoàn Nguyễn Tuấn (anh của Đoàn Nguyễn Thị Huệ, vợ thi hào Nguyễn Du).
1.Bài Thu Khuê: Gió thu ôm vuốt tay áo, nước bỗng bắt đầu đóng băng. Phòng sâu vắng vẻ, lạnh lùng khôn xiết Chữ gấm dệt xong nhưng tin cá vắng. Đêm đêm những chỉ bói điềm vui bằng hoa đèn lạnh... Bài thơ phản phất dư âm người thiếu phụ trông chồng trong thơ thi hào Âu Dương Tu đời Tống bài Điệp luyến hoa. Chữ gấm do tích nàng Tô Huệ mong chồng được về, nàng dệt nên một tấm gấm có những dòng thỉnh cầu việc đó dâng lên vua nàng đã được toại nguyện. Người xưa viết thư trên giấy có in hình con cá ở đầu gọi là ngư thư. Theo thi thoại của Di Bạch Trai: có người đem biếu đôi cá chép, khi mổ ra thấy trong bụng có bức thư, cho nên thư tín còn được gọi là tin cá.
PHÒNG THU
Gió thu vuốt áo, nước nhen băng,
Vắng vẻ phòng sâu nỗi lạnh lùng.
Chữ gấm dệt rồi tin cá vắng,
Đêm đêm báo hỷ, bói hàn đăng.
THU KHUÊ
Thu phong bả tụ hốt sơ băng,
Liêu tịch thâm khuê, lãnh bất thăng.
Cẩm tự chức thành lân tín diểu,
Hỷ hoa dạ dạ bốc hàn đăng.
2.Bài Thu Dạ: Đêm thu dằng dặc nơi chốn đình Bắc. Tiếng kèn, tiếng ốc không sao nghe nỗi. Bồn chồn dưới đèn lạnh trong quán vắng. Trên áo chăn tràn đầy ánh trăng sao.
ĐÊM THU
Thao thức đêm thu chốn Bắc đình,
Điệu kèn, tiếng ốc chói thanh âm,
Quán vắng bồi hồi đèn lạnh lẽo,
Tràn ngập trăng sao chiếu áo chăn.
THU DẠ
Thu da thiều thiều ngọn Sóc đình,
Giá thanh giác vận bất kham thinh.
Bồi hồi cô quán hàn đăng hạ,
Y bí tàn phân mãn nguyệt tinh.
3.Bài Thu vân: Sứ đoàn được vua Càn Long cho đi thăm vườn ngự uyển tại Nhiệt Hà, nơi vua đang nghỉ mát. Tôi có đến thăm vườn này năm 2009. Năm sắc lộng lẫy trên cành vườn ngự. Mây ngàn một đám bây về nơi đâu? Lững lờ nếu vượt mặt nước qua biển Nam. Cho gửi thơ nặng tỏ nỗi nhớ xa.
MÂY THU
Ngự uyển rực màu mây ngũ sắc,
Một vầng mây lạc dạt về đâu?
Lững lờ vượt biển Nam trôi mãi.
Cho gửi lòng ta một nỗi sầu.
THU VÂN
Ngũ sắc nồng trang ngự uyển chi,
Nhàn vân nhất phiến khứ hà chi?
Phù du nhược độ Nam minh thủy,
Nghĩ phụ trùng giam đạt viễn ty.
4.Bài Thu Sơn: Thu tạnh một màu quét sạch mây trôi. Núi biếc, đèo xanh phơi bay vệt gấm. Ta muốn chống gậy lên đỉnh núi cao vút. Cúi nhìn trời đất, ngắm ánh bình minh, ánh hoàng hôn.
NÚI THU
Một màu thu tạnh, chẳng mây trôi,
Núi biếc, đèo xanh gấm vẻ vời.
Chống gậy muốn trèo lên đỉnh núi.
Ngắm ánh dương soi rạng đất trời.
THU SƠN
Tình thu nhất sắc tảo phù vân,
Thúy nghiễn, thương nhai hiện cẩm vân.
Ngã dục huề cùng đăng tuyệt đỉnh,
Phủ khan đại khối ác triêu huân.
5.Bài Thu Mộng: Núi sông trong mộng không còn gì là xa cách. Đêm đêm trở về với cảnh thu nơi vườn cũ. Tiếng xe phóng đâu đây khiến mình bừng tỉnh. Thấy mình vẫn là cánh bèo trôi nỗi ở chân trời.
MỘNG THU
Mộng về sông núi chẳng còn xa,
Trở lại đêm đêm vườn thu nhà.
Tiếng ngựa xe qua lòng tỉnh giấc,
Chân trời phiêu bạt, cánh bèo hoa.
THU MỘNG
Mộng lý sơn xuyên thất trở tu,
Qui lại da dạ cố viên thu.
Kinh xao hà xứ khu xa hưởng,
Y cựu, thiên biên nhất ngạnh phù.
6.Bài Thu Nguyệt: Hình ta, bóng trăng cộng lại thành đôi. Bốn mươi năm nay bạn bên song nhỏ. Muôn dặm theo nhau tới triền cát Bắc. Tinh thần vẫn như thuở soi xuống sông Quỳnh. Bài thơ cho ta biết được Đoàn Nguyễn Tuấn sinh năm 1750, sinh ở Quỳnh Hải, bên sông Quỳnh tỉnh Thái Bình.
TRĂNG THU
Ta hình, mình bóng cộng song đôi,
Bốn chục năm qua sánh bạn đời.
Muôn dặm theo nhau về đất Bắc,
Sông Quỳnh một thuở vẫn còn soi.
THU NGUYỆT
Ngã hình quân ảnh cộng thành song,
Tứ thập niên lai bạn tiểu song.
Vạn lý tương tùy lâm Sóc mạc,
Tình thần nhất dạng chiếu Quỳnh giang.
7.Bài Thu Thảo: Thu sang màu cỏ thảy đều lóm đóm. Như tóc người buồn điểm thêm sợi bạc. Chưa chịu để gió bụi ràng buộc mãi. Tới mùa xuân ấm cỏ lại tốt tươi.
CỎ THU
Thu sang màu cỏ điểm màu sương,
Như tóc người buồn điểm sợi buồn.
Chẳng chịu bụi trần vương vấn mãi,
Xuân sang nắng ấm cỏ xanh rờn.
THU THẢO
Thu lai, thảo sắc tận thành ban,
Điểm xuất sầu nhân mãn nhất ban !
Vị hứa phong trần chung quản thúc,
Dương xuân sinh hậu hảo khai nhan.
8.Bài Thu Diệp: Hồng tàn không sức chống với trời băng. Xơ xác lìa cành, xào xạc quanh gối. Đâu bằng Việt Nam tràn trề sức sống. Mùi thơm vẻ đẹp không rụng theo mùa thu.
LÁ THU
Hồng tàn không sức chống trời băng,
Xạc xào quanh gối lá lìa cành.
Đâu bằng đất Việt tràn sức sống,
Hương sắc thu sang chẳng rụng tàn.
THU DIỆP
Tàn hồng vô lực khống băng thiên,
Tiều tụy từ chi, giáp chẩm biên...
Tranh trự Việt Nam sinh ý hảo,
Bất tùy kim lệnh trụy phương nghiên.
9.Bài Thu Suất: Giữa trời thu trong trẽo chốn ải xa, giọt nước đồng hồ lê thê... Lên bờ ao tiếng dế sầu bi xen với tiếng ve lạnh lẽo. Loài côn trùng bé nhỏ cũng hiểu lòng kẻ đi xa. Gợi mối u hoài chuyễn đưa tới quê nhà.
DẾ THU
Đất khách đêm thu giọt nước buồn,
Bờ ao tiếng dế lạnh kêu thương.
Côn trùng cũng hiểu lòng chinh khách,
Chuyển mối u hoài đến cố hương.
THU SUẤT
Tuyệt tái thanh thu dạ lậu trường,
Trì đường bi suất gián hàn tương !
Vi trùng diệc giải chinh nhân tứ,
Liêu dẫn u hoài đáo cố hương.
CHÚ THÍCH:
- Đồng hồ: ngày xưa tính thời gian bằng chiếc hồ bằng đồng nhỏ giọt xuống một cái bình khác, trong hồ có vạch nước chỉ thời gian, canh một, canh hai...
(còn tiếp)
TS PHẠM TRỌNG CHÁNH
Xem online : Phần 2