Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Tư duy > Đổi mới > Khép nép văn hoá

Khép nép văn hoá

Thứ Năm 14, Tháng Sáu 2007

Văn hoá là gì

Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng 1995, có nói, văn hoá là, tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Dù là loại nào đi nữa thì một tập họp nhiều giá trị không phải là văn hoá. Văn hoá không phải là giá trị.

Định nghĩa thứ hai trong tự điển trên cũng có nói, văn hoá là, những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần. Hình như đây là định nghĩa của khái niệm giải trí. Dù là loại nào đi nữa thì một tập họp nhiều hoạt động không phải là văn hoá. Văn hoá không phải là hoạt động.

Định nghĩa thứ ba có nói, văn hoá là, tri thức, kiến thức khoa học. Định nghĩa này vô dụng hoá cụm từ văn hoá. Nếu văn hoá là tri thức, kiến thức thì từ nay trở đi, không ai cần phải dùng cụm từ văn hoá nữa.

Định nghĩa thứ bốn có nói, văn hoá là, trình độ trong sinh hoạt xã hội. Nhưng trình độ là mức độ và mức độ là giá trị. Một lần nữa, văn hoá không phải là giá trị dù là loại nào đi nữa.

Định nghĩa thứ năm có nói, văn hoá là nền văn hoá. Thế là huề tiền.

Nói tóm lại, Từ điển tiếng Việt 1995 chưa định nghĩa được văn hoá là gì. Đây là một điều đáng tiếc vì từ điển là một trong những phương tiện quan trọng nhất cho văn hoá.

Văn trong văn hoá có nghĩa là lời văn, câu văn. Hoá có nghĩa là biến hoá, tiến triển. Nghĩa đen của văn hoá là sự biến hoá thành văn chương (Xin phép tác giả - nếu thế thì văn hóa cổ đại trước khi có chữ viết là gì? - ĐT). Điều này cần thiết vì đó là cách truyền đạt lối sống và nếp nghĩ từ những thế hệ trước sang các thế hệ sau. Nếu sự truyền đạt nằm trong vòng một thế hệ mà thôi thì nó là một phong trào chứ không phải là văn hoá.

ĐỊNH NGHĨA: Văn hoá là sự truyền đạt xuyên qua biên giới thế hệ.

Chính vì thế nên từ điển là một trong những phương tiện quan trọng nhất cho văn hoá. Ai cũng có thể nhìn thấy được giá trị của một nền văn hoá bằng cách đánh giá cuốn từ điển quan trọng nhất của nền văn hoá đó.

Bạn nghĩ sao về một nền văn hoá mà trong đó từ điển của nền văn hoá đó không định nghĩa được, văn hoá là gì?

Bạn nào có từ điển tốt nhất tiếng Việt xin vui lòng cho vào Đại Gia Đình Văn Hoá nội dung định nghĩa của từ văn hoá. Xin cho biết năm xuất bản, nhà xuất bản, và tên từ điển.

Phức cảm tự ti

Một phức cảm tự ti, trong lĩnh vực tâm lí và phân tâm học, là một cảm giác thấy mình thua kém hơn người khác trong vài phương diện. Nó thường là vô tình, và tưởng để thúc đẩy những cá nhân ưu phiền bù lại quá đáng, làm cho có một thành tựu ngoạn mục hoặc một thái độ phản xã giao cực độ. Không giống một cảm giác thua kém bình thường, cái mà có thể động tác như một cái khích lệ cho thành tựu, một phức cảm tự ti là một trạng thái xúc tiến việc can ngăn, thường hay đem đến sự rút lui từ những khó khăn.

Mở đường trong buổi ban đầu cho việc làm của phạm vi này là do A. Adler, người đã dùng cái thí dụ của các phức hệ Napoleon để minh hoạ lý thuyết của ông ấy. Vài nhà xã hội học có đưa ra rằng một phức cảm tự ti có thể cũng có mặt ở một mức độ rộng hơn, ảnh hưởng toàn thể các nền văn hoá. Lý thuyết này, vẫn còn dễ bị tranh luận, mang tên là khép nép văn hoá. Tâm lí cổ điển kiểu Adler phân biệt giữa hai xúc cảm thua kém chính yếu và phụ thuộc. Người ta cho rằng một xúc cảm thua kém chính yếu bắt nguồn từ kinh nghiệm chính thống của sự yếu đuối, không tự lực được và lệ thuộc của tuổi thiếu niên. Rồi nó có thể bị làm dữ dội hơn do các so sánh với anh chị và các người trưởng thành. Một cảm giác thua kém phụ thuộc liên quan đến kinh nghiệm của một người trưởng thành không vối được tới một mục đích chót vô tình tưởng tượng cho an ninh và thành công chủ quan để đền bù cho cái xúc cảm thua kém. Cái khoảng cách nhận biết từ cái mục đích đó sẽ dẫn đến một cảm giác tiêu cực mà có thể sẵn sàng nhắc nhở cái cảm giác thua kém chính thống; sự kết hợp đa dạng hai loại xúc cảm thua kém như nói trên có thể làm cho cảm thấy dồn dập. Cái mục đích tuởng tuợng ra để tự bào chữa cho cái cảm giác chính thống và chính yếu của sự thua kém, thực ra là nguyên nhân cho cái cảm giác phụ thuộc của sự thua kém. Sự kiện đó chính là sự tiến thoái lưỡng nan của song đề này.

Khép Nép Văn Hoá

Khép nép văn hoá không có nghĩa là văn hoá yếm thế, như có dùng trong bài viết "Về phức cảm tự ti". Yếm thế có nghĩa là có tư tưởng chán đời. Cụm từ "văn hoá yếm thế" nói về một truyền thống cầu chết trong khi cụm từ "khép nép văn hoá" không có nói về nền văn hoá mà nói về sự khép nép của một văn hoá nào đó.

Khép nép văn hoá, trong việc tra cứu văn hoá và nhân loại học chuyên về xã hội, là cái ý kiến dễ bị tranh luận mà vài nền văn hoá quốc dân trải qua từ một phức cảm tự ti bị chủ quan hoá, làm cho dân các nước đó muốn bác bỏ văn hoá của chính mình coi như thua kém so với các nền văn hoá của các nước khác. Nó liên quan đến, mặc dù không có đồng nhất với, quan niệm về tâm tính thuộc địa.

Khái niệm này phần đông thường dùng nhất ở Australia, nơi đã chấp nhận khắp nơi (mặc dù không phải là cho tất cả mọi người) như là một điều thực tế trong đời sống văn hoá Australia, chẳng khác gì ở New Zealand. Nhiều nhà bình luận văn hoá ở Canada cũng có góp ý rằng một quá trình tương tự cũng diễn ra ở nước nhà, mặc dù cái cụm từ, khép nép văn hoá, không có thông dụng để làm nhãn hiệu cho cái hiện tượng đó ở Canada. Một cái thí dụ khác là sự tự nhận khép nép nước Scotland, một trong bốn quốc gia của Vương quốc Anh.

Trong nhiều trường hợp, khép nép văn hoá, là một sự kết tội của đồng hương chê bai phức cảm tự ti và quả quyết phẩm chất của văn hoá quốc dân. Một thí dụ là cái tính ngữ, “Tây Brit”, một người Ireland dùng để nói về một người Ireland khác mà thấy đã chấp nhận quá mực các phong thái của nước Anh.

Khái niệm "khép nép văn hoá" do hai nhà xã hội học Australia là Brian Head và James Walter định nghĩa gồm: sự tin tưởng cho rằng nước mình chiếm lĩnh một vị trí văn hoá thứ cấp ở ngoại vi, và cũng cho rằng quy định cho các tiêu chuẩn trí năng và các sự cải tiến chỉ xảy ra ở những nơi khác.

Hậu quả làm cho một người có lòng tin này mang khuynh hướng muốn phá giá đời sống văn hoá, kinh viện và nghệ thuật nước nhà, và để tôn kính cái văn hoá “cao thượng” của một nước khác. Những người như vậy đôi khi có thể bắt đầu tôn trọng hoặc biết ơn một số ví dụ nhất định đặc điểm của văn hoá quốc dân nước họ, nhưng nói chung chỉ xẩy ra sau khi mấy cái ví dụ đó được thính giả quốc tế cho rằng có giá trị đáng kể.

Cultural Cringe, 29-3-2007

Dịch: TSGGML

Soạn: Minh Duy