Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Arts > Tạo hình > TỪ ĐIÊU KHẮC ĐÌNH CHÙA ĐẾN HỘI HỌA HIỆN ĐẠI

TỪ ĐIÊU KHẮC ĐÌNH CHÙA ĐẾN HỘI HỌA HIỆN ĐẠI

nhà thơ HOÀNG HƯNG

Thứ Bảy 9, Tháng Mười Hai 2017, bởi Cong_Chi_Nguyen

Nước ta có một di sản đồ sộ về điêu khắc, rải rác ở hàng nghìn đình chùa cổ mà ảnh hưởng có thế thấy rõ ở một vài họa sĩ đương đại.

Đầu những năm 90, hội hoạ đương đại VN được thế giới phát hiện, đặc biệt là với cuộc khai thác qui mô đầu tiên của gallery Plum Blossoms Hồng Kông. Xem tranh Nguyễn Tư Nghiêm, nhất là hàng loạt bức “Điệu múa cổ” trên giấy cũng như sơn mài, các nhà sưu tầm và phê bình hội hoạ nước ngoài thường hỏi ông về Picasso. Có lẽ bởi những hình người múa được thể hiện theo nhiều góc độ cùng một lúc, phía trực diện, phía hông, phía lưng, thật rộn ràng, sinh động, đầy tiết tấu, có gì đó giống như tranh của trường phái lập thể mà Picasso là người tiên phong. Thực ra đã có một sự trùng hợp thú vị: Nếu ảnh hưởng của những mặt nạ và tượng châu Phi đã đưa Picasso từ “giai đoạn hồng” đến chỗ làm nên cuộc cách mạng trong mỹ thuật thế giới với bức “Các cô nàng Avignon” (1907), thì chính điêu khắc đình chùa làng có phần chủ chốt tạo bước ngoặt cho hội hoạ VN với những “Điệu múa cổ” của Nguyễn Tư Nghiêm. Ông là người phát hiện kho báu điêu khắc cổ của dân tộc rải rác trong hàng ngàn đình chùa và đi đầu trong việc khai thác tinh thần cũng như môtíp của nó vào sáng tác.

Tốt nghiệp khoá cuối cùng của Trường Mỹ Thuật Đông Dương, tài năng của Nguyễn Tư Nghiêm đã bộc lộ rõ rệt trong kháng chiến chống Pháp (giải nhất hội hoạ năm 1949 với tranh khắc gỗ “Du kích Phù Lưu”) rồi đầu hoà bình, với bức sơn mài “Con nghé quả thực” kết quả của thời gian tham dự Cải cách ruộng đất ở Phú Thọ. Song đó vẫn là những tác phẩm theo cách thể hiện có phần cổ điển, với hình thể như mắt thường nhìn thấy.

Năm 1954-1955, ông cùng với một số hoạ sĩ (Huỳnh Văn Gấm, Nguyễn Đỗ Cung, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng) đi vẽ theo tuyến đường sắt Hà Nội - Hữu Nghị Quan do Trung Quốc giúp khôi phục. Dọc đường, ông thấy nhiều đình chùa xiêu đổ, sắp bị phá, vào xem thì phát hiện nhiều tượng đẹp quá. Bây giờ ông vẫn còn nhớ bức phù điêu trên xà một ngôi đình gần ga Kép, khắc bốn cô gái khoả thân cầm khăn tắm, ngồi xổm bên hồ sen. Ông vội ghi chép lại tất cả. Sau đó, Nguyễn Tư Nghiêm chú tâm ghi lại một cách hệ thống các điêu khắc đình chùa thời Lê, Nguyễn.

Đình làng VN là một thực thể văn hoá rất đặc biệt, có thể nói là độc nhất vô nhị của thế giới. Đình vừa là nơi thờ cúng, tế lễ, vừa là nơi tụ họp hội hè, mà các thần được thờ thuộc tín ngưỡng dân gian nên nhiều khi chẳng mấy oai nghiêm; các điêu khắc đình, là những phù điêu và chạm trổ trang trí cho hầu hết các thành phần kiến trúc gỗ, từ Bắc đến Trung, suốt trong mấy thế kỷ, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, đều thống nhất một tinh thần vui chơi dân dã, hồn nhiên thoải mái. Bên cạnh những rồng, phượng và tiên nữ đẹp mộc mạc, là những con cá, con thạch sùng... gần gụi, và sinh động nhất, ngộ nghĩnh nhất là các cảnh sinh hoạt: chặt củi, cày voi, mẹ gánh con, chồng người làm xiếc, chèo thuyền uống rượu... thú vị nhất là những cảnh trai gái tắm hồ, trêu ghẹo nhau, chải tóc cho nhau!

Trong lúc đa số các hoạ sĩ còn lầm phẩm chất “hiện thực” với việc mô tả, kể lể bắt chước tự nhiên theo tinh thần duy lý phương Tây đã cũ lắm rồi, thì những cô gái, cụ già chen nhau trong điệu múa cổ tưng bừng, những con vật linh thiêng mà đời thường trong loạt tranh 12 con giáp của Nguyễn Tư Nghiêm có thể coi là những tác phẩm có ngôn ngữ dân tộc - hiện đại rõ rệt đầu tiên của hội hoạ nước ta. Trả lời nhà nghiên cứu mỹ thuật người Mỹ Jeffrey Hantover, ông nói: “Tôi không học Picasso mà lấy cảm hứng từ văn hoá dân gian. Dường như Picasso và tôi, từ hai lối đi khác nhau, đã gặp gỡ ở một điểm”.

Lòng yêu đời của điêu khắc đình làng còn làm trẻ lại một cách bất ngờ tuổi 80 của một hoạ sĩ lớp đầu tiên. Đến thăm nhà lão hoạ sĩ Hoàng Tích Chù, không ai là không thích thú ngắm hai bức sơn mài: “Hoà bình vũ trụ” và “Đuổi nghé”. Bức thứ nhất tả hai cô gái khoả thân vừa múa vừa chơi nhạc, một cô gõ phách, một cô gảy đàn đáy, trên những tảng mây giữa bầy tinh tú bay lượn. Ông lão cười bảo: “Hai con đĩ đánh bồng ở đình đấy”. “Đĩ đánh bồng” là điệu múa dân gian truyền thống trong các hội làng. Còn cô gái giữa đêm trăng rượt theo con nghé tơ, đầy sức sống tuổi 17, thì ông nói: “Gọi đúng tên dân dã là “Động cỡn”, rực mỡ nên đang đêm thả nghé ra mà đuổi cho mệt, mới ngủ được”. Tinh thần và môtíp thật gần gụi những bức chạm đình làng. Nên biết rằng quê hương lão hoạ sĩ (phủ Từ Sơn, Bắc Ninh) có hai ngôi đình cổ đẹp nổi tiếng: đình Phù Lưu và đình Đình Bảng.

Nòng cốt của sự đổi mới hội hoạ VN trong thập kỷ 90 là lớp hoạ sĩ trẻ, mà người khởi xướng là Nguyễn Quân. Ông cử nhân toán điều khiển học ở Đức này, học xong là trở thành... nhà nghiên cứu giảng dạy lý luận mỹ thuật và hoạ sĩ. Cuối những năm 70, sau khi cùng đồng nghiệp là Phan Cẩm Thượng đi nghiên cứu điêu khắc cổ ở hàng trăm đình chùa, ông đã ném cả tủ sách mấy ngàn cuốn của mình xuống đường, và kêu gọi các hoạ sĩ bắt lại mạch nguồn mỹ thuật tiền-thực dân đang còn được bảo lưu nhưng không được chú ý tới trong các đình chùa. “Về làng để hoà nhập với thế giới” (ý của Jeffrey Hantover), đã là cả một trào lưu ào ạt đến bây giờ.

Riêng Nguyễn Quân thì say mê cái bàn thờ của chùa. Ông bảo: “Chỉ một bàn thờ chùa Mía là đầy đủ đời sống văn hoá làng”. Tranh của ông đầy những đồ vật của bàn thờ truyền thống, lạ nhất là những đầu phụ nữ lơ lửng như trong mơ, rõ ra vẻ đẹp tròn đầy của những gương mặt tượng Bồ tát trong các chùa. Ngay cả những thân thể trắng ngần trong tranh ông cũng khiến ta không thể không liên tưởng đến pho tượng Bồ tát độc đáo ở Chùa Dâu (Bắc Ninh). Vị Bồ tát này có đầu bụt ốc, có tai thùy chảy dài, ngồi kiết già trên toà sen, tay chỉ trời tay chỉ đất, nhưng lại... trần đến lưng, da trắng nuột, tay búp măng, cổ cao ba ngấn, gương mặt và thân hình tròn trịa đẹp đúng vẻ đẹp lý tưởng của người phụ nữ VN thời xưa, đẹp đến cả dải thắt lưng điều thắt múi thả trước bụng sang hai bên xuống đến đất, trên chiếc quần thâm. Dân gian đều gọi đây là tượng “Bà Trắng”, và tương truyền nguyên mẫu của tượng chính là một bà phi trong phủ Chúa Trịnh. Nguyễn Quân đã bắt được cảm giác nhục thể rất đặc biệt mà người nghệ sĩ dân gian xưa đã gửi gắm trong những tượng chùa như thế, khiến tranh ông luôn có không khí siêu thực rất riêng của VN.

H.H.