Trang nhà > Văn chương > Cổ điển > CÚC THU BÁCH VỊNH. PHAN HUY ÍCH (2)
CÚC THU BÁCH VỊNH. PHAN HUY ÍCH (2)
Thứ Bảy 13, Tháng Giêng 2018, bởi
Phần tiếp theo của tập thơ nhật ký đối thoại giữa Hải Lượng thiền sư (Ngô Thì Nhậm) và Bảo Chân đạo sĩ (Phan Huy Ích)
BÀI 25
Nguyên dẫn: Nay gặp ngày kỵ của đấng tiên công (Ngô Thì Sĩ), nơi từ đường cúng tế sực nức hương hoa. Đệ bị cảm không đến chiêm bái được; xin theo vần trước cho cháu mang tới kính hầu, mong xét tới cho.
Bình giải: Nền nhân mở rộng thêm nhà Thiệu Văn. Kinh Thư: ‘Thiệu văn ý đức âm’ nghe thấy mà phục theo cái ý nghĩa của nó. Bóng hòe xanh tốt rợp quảng đê xưa. Ý nói con cái sẽ làm nên. Vương Hựu trồng ba cây hòe ở sân bảo là: “Nay ta chưa làm, sau con cháu ta tất sẽ làm”. Ba cây hòe ứng với chức Tam Công. Trời đất nung đúc tài hoa dựa vào đức đời trước. Non sông đưa lại phúc lộc, mang sắc mệnh triều đình. Tiệc vui gặp lúc thu muộn. Đền Sùng Đức thờ gia tiên họ Ngô nắng trưa chiếu sáng. Nghĩ đến hiếu mừng thai huynh đáng là bậc đạt hiếu. Lời dạy của tiên công lấy nghĩa làm phương hướng hành độ còn mãi truyền. Kinh Thi thơ Hạ Vũ: ‘Vinh ngôn hiếu tư, hiếu tư duy tắc.’ Luôn luôn nói tới đạo hiếu, nghĩ tới đạo hiếu để làm khuôn phép. Sách Trung Dung: ‘Vũ Vương, Chu Công kỳ đạt hiếu hồ?.’ Vũ Vương, Chu Công là người thấu đạt đạo hiếu chăng?
Nền nhân mở rộng Thiệu Văn nhà,
Xanh tốt bóng hòe đê lối xưa,
Trời đất đúc tài bằng đức trước,
Non sông phúc lộc sắc triều đưa,
Tiệc vui vào lúc thu sang muộn,
Sùng Đức đền từ nắng giữa trưa,
Nghĩ hiếu đời nay, anh đạt hiếu,
Lời dạy tiên công nghĩa đạo nhà.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Nhân cơ trùng thác thiệu văn đường,
Hoè ấm thông thanh uất cựu đường,
Thiên địa dục tài bằng thế trạch,
Sơn hà lưu khánh phụng triều chương,
Truy hoan tịch giới thu dung vãn,
Sùng Đức từ lâm ngọ vị dương,
Tư hiệu hỉ công sung đại hiếu,
Miên miên đình huấn nghĩa vi phương.
BÀI 26 (...)
BÀI 27
Nguyên dẫn: Kính tiếp thơ cùa thai huynh gửi tới, bảo rằng lại được gặp gỡ như lần trước đây là việc khó, thật là điều cảm động đối vớt thân danh chúng ta, khúc Đan Dương ở trước mặt, muôn nỗi cảm hoài, nhân đây mà làm thơ họa lại, mong được soi xét.
Bình giải: Đan Dương là cung điện vua Quang Trung. Đan Dương Từ còn là tên sách do Cát Hồng và Diệp Mông Đắc xướng họa đời Tống.
Mang phận bút nghiên quan văn từng bước lên cung điện. Tiếng giọt đồng hồ trong nhà chầm chậm vang trong nhà bạc. Tiệc vua ban thâu đêm sáng đuốc sen vàng. Ngọn đuốc có đế hình hoa sen chạm vàng dùng trong cung điện vua. Ở viện Hàn Lâm suốt ngày họa thơ Bạch Tuyết. Theo Tống Ngọc: Bạch Tuyết, Dương Xuân là khúc hát hay của Sư Khoáng thời Chiến Quốc, ít người họa được, ở đây chỉ công việc làm Đông Các học sĩ Viện Hàn Lâm, nhà bạc nơi cá quan văn soạn thảo biểu chương dâng vua, viết chiếu lệnh, dâng sách lược bàn luận cùng vua, vai trò cố vấn khó khăn ít người làm được. Cuộc gặp hiếm trong đời như giao long gặp mưa. Tam Quốc chí chép: Chu Du dâng sớ nói: “Lưu Bị không phải là con người bị khuất phục mãi để cho người ta dùng, sợ rằng cũng như loài giao long nếu gặp mây mưa thì không còn ở trong ao nữa.” Phan cho rằng cuộc gặp gỡ với vua Quang Trung như rồng gặp mưa. Ứng đối luận bàn trong triều anh minh như phượng hót phía Đông núi. Kinh Thi: ‘Phượng hoàng minh hỷ, vu bỉ triêu dương’. Người hiền gặp triều anh minh, nên được bày tỏ chính kiến thẳng thắng với nhà vua. Rồng kia ví chẳng sớm tới núi Kinh Sơn. Ắt cần ta vung ngòi bút quét sạch tám phương. Nếu vua Quang Trung chẳng qua đời sớm, thì ta còn dùng ngòi bút, sách lược tạo nên sự thái bình trong thiên hạ.
Mang phận bút nghiên cung điện vua,
Giọt đồng chầm chậm ngân đường đưa,
Tiệc vua suốt sáng đuốc sen tỏa,
Ngày họa Hàn Lâm Bạch Tuyết thơ,
Hiếm có ở đời long vũ gặp,
Luận bàn triều chính phượng ca lời,
Chẳng Rồng khuất bóng Kinh Sơn đó,
Quét bút cần ta tám cõi trời.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Hữu phận thao cô lý điện đường,
Trì trì xuất lậu xuất ngân đường,
Ngự diên dạ triệt kim liên trúc,
Tư viện tình canh Bạch Tuyết chương,
Khoáng thế tao phùng giao đắc vũ,
Minh đình giảng hoạch phượng minh dương,
Kinh Sơn bất thị long lai tảo,
Yếu ngã huy hào tảo bút phương.
BÀI 28
Nguyên dẫn: Trong lúc cảm nghĩ, sực nhớ quang cảnh ngày lên đường vào Nam, tự nghĩ khi được vua triệu, lại dùng dằng không đi ngay, mà thấy trong lòng bứt rứt. Xin nối thêm bài này mong thai huynh xem cho.
Bình giải: Tay tự gõ cửa cung mây vào nơi điện đài. Cỡi ngựa rong ruổi mãi trên đường dài. Nơi lui tới là nhà Thừa minh. Tuyên thất, Thừa minh là tên nhà dựng liền cung điện vua, Tuyên thất là tên ngôi nhà làm trước cung Vị Ương vua Hán Văn Đế. Sử Hán chép: Văn Đế triệu Giả Nghị vào nhà Tuyên thất để hỏi việc quỉ thần. Cương tấu đối là thơ Thiên bảo, Quyền a. Thiên bảo là một bài thơ thiên Tiểu nhã Kinh Thi. Quyền a là bài thơ thiên Đại nhã: Ý nói giữ việc văn thư cung điện vua. Gió cát Lũy Thầy liền cửa Nhật Lệ. Quảng Bình, Thủy triều sông Hương đến sông Thai Dương, Thuận Hoá. Mấy năm nay hằng mơ nhạc quân thiều, tiếng nhạc thái bình thời vua Quang Trung. Trông ngóng không còn được thấy vua Quang Trung nay xa một góc trời. “Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương”: Câu này dùng lại cả câu bài Tiền Xích Bích Phú của Tô Đông Pha, Mỹ nhân, từ của Khuất Nguyên còn chỉ nhà vua hay bậc hiền nhân, quân tử.
Gõ cửa cung mây vào điện đài,
Ruổi rong cỡi ngựa mãi đường dài,
Thừa minh Tuyên thất nơi lui tới,
Thiên bảo, Quyền a tâu thảo bài,
Gió cát Lũy Thầy liền Nhật Lệ
Sóng triều Hương Thủy đến Sông Thai,
Quân thiều nay chỉ còn trong mộng,
Nhớ mỹ nhân xa một góc trời.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Thân khấu vân hôn tử cực đường,
Chinh cơ lịch lịch giá trường đường,
Thừa minh, Tuyên thất xu bồi địa,
Thiên bảo, Quyền a tấu đối chương,
Sài lũy phong sa liền Nhật Lệ,
Hương hà triều lịch tự Thai Dương,
Niên lai lũ tác quân thìều mộng,
Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương.
BÀI 29
Nguyên dẫn: Nay tới húy nhật tiên công (Ngô Thì Sĩ), tất sẽ sắm sửa lễ vật tiến cúng. Tôi lâu nay chữa bệnh, hiện còn kiêng sương gió, chưa thể tới nhà thờ làm lễ được. Vậy xin kính họa bài Nhớ động Nhị Thanh của thai huynh, để tỏ nỗi lòng cảm mộ, mong thai huynh soi xét.
Bình giải: Động Nhị Thanh ở Lạng Sơn. Khi Ngô Thì Sĩ làm trấn thủ nơi này, có sai người khắc tượng mình trên vách động bên cạnh khắc bài văn bia do ông viết. Bài thơ Nhớ động Nhị Thanh của Ngô Thì Nhậm nhớ bài văn bia của cha.
Mười năm trời chịu ơn nuôi dạy ở trong nhà. Động tiên nay đã thăm thẳm trên đường đá biếc. Vách núi sừng sửng, sao rọi lời văn châu ngọc. Ngôi đền chót vót, mây lồng quanh vẻ áo thêu vẽ nhà vua ban cho. Mấy năm nay chưa chút báo đền công ơn như núi cao biển rộng. Giặt phơi chỉ còn ngước trông nước Hán, nắng thu. Sách Mạnh Tử ca tụng việc học: “Như lấy nước sông Hán để giặt, lấy nắng mùa thu mà phơ.” Nước sông Hán nhiều giặt dễ sạch, nắng mùa thu gắt phơi dễ khô. Tác giả ý nói vẫn hành động đúng như lời nhạc phụ dạy dỗ. Nhớ lại ngày trước, việc hầu hạ bên giường chiếu còn nhiều thiếu sót. Ngậm ngùi trông theo chiếc xe gió đã cách xa tít mù. Nhạc phụ đã qua đời như đi chiếc xe trong gió bay qua.
Mười năm nuôi dạy ở trong nhà,
Thăm thẳm động tiên đường lối xa,
Vách dựng sao soi lời ngọc báu,
Đền thâm mây phủ áo văn hoa,
Ơn non đức bể chưa đền đáp,
Sông Hán giặt phơi thu nắng qua,
Nhớ trước việc hầu còn thiếu sót,
Ngậm ngùi xe gió tít mù xa.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Thập niên ân dục, xỉ môn đường,
Tiên động du du, bích thạch đường,
Tiểu bích, tinh từ, tùy tảo bút,
Nguy từ, vân ủng cổn hoa chương,
Quyên trần vị hữu thù sơn hải,
Trạc bộc duy dư ngưỡng Hán dương,
Diên kỷ khiếm bồi truy cảm nhật,
Phong biền trướng vọng liểu minh phương.
BÀI 30
Nguyên dẫn: Được thai huynh cho xem mấy bài thơ “Tiễn thu” hay, đệ vốn kính phục tình tao nhã, ý tiếc cảnh, dám xin cầm bút nối vần để đáp lại, những muốn kéo mùa thu mà giữ hương lan, nên tiếp rập khuôn theo vần.
Bình giải: Trân trọng giữ mùa thu lại ngôi nhà phía Đông. Chưa cho roi vàng ruổi trên đường đê ngọc. Roi vàng: Kim tiên, mùa thu thuộc hành Kim, nên kim tiên chỉ mùa thu. Sớm Liễu tối Hư nên hiệp âm luật mùa thu. Kinh Lễ thiên Nguyệt lệnh: “Tháng cuối thu, tối đến sao Hư mọc ở giữa phương Nam, sáng sớm sao Liễu mọc ở giữa phương Nam.” Bãi cỏ lan, bờ cỏ chỉ đủ kết thành chương. Phía mây xa, chim nhạn buổi sớm ngậm hạt móc trong. Khi có tuyết cây thông lạnh ánh nắng sáng chiếu sáng đẹp. Lặng lẽ ngắm thu ngâm câu thơ hay. Thi đàn chính là nơi giữ mùa thu lại. Những câu thơ về mùa thu hay tuyệt tác đã làm mùa thu còn mãi.
I
Mời thu trân trọng đến nhà Đông,
Chẳng hẹn roi vàng đến ngọc đường,
Sớm Liễu, tối Hư cùng hiệp luật,
Bờ lan, cỏ chỉ kết thành chương,
Mây xa, nhạn sớm mang sương móc,
Tuyết xuống, thông soi lạnh bóng dương,
Lặng lẽ nhớ thu ngâm tuyệt cú,
Thi đàn nơi giữ chút thu hương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ nhất
Lưu thu trịnh trọng đáo Đông đường,
Vị hứa kim tiên giá ngọc đường,
Đản Liễu hôn Hư tu hiệp luật,
Đinh lan ngạn chỉ túc ly chương,
Vân biên hiểu nhạn hàm thanh lộ,
Tuyết hậu hàn tùng đới diệm dương,
Đạm đãng hoài thu nga cảnh củ,
Thi đàn chính thị trụ thu phương.
BÀI 31
Bình giải: Giữ thu lưu luyến tới nhà phía Tây. Chưa nghe tiếng thu im bặt bên bờ trúc. Thương âm, ‘thương’ ứng với mùa thu gợi ý bài Tiếng Thu của Âu Dương Tu. Lá rụng sông Ngô giục giả lòng khách. Thơ Đường: ‘Phong lạc Ngô giang lãnh’. Lá phong rụng sông Ngô. Hái cúc trên núi Đào cảm hứng nên thơ. Thơ Đào Tiềm: ‘Thái cúc đông ly hạ’. Hái cúc dưới dậu đông. Gió khua sáo trời, phát ra tiếng vang buổi sớm. Sách Trang Tử, thiên Tề Vật luận: ‘Nhữ văn nhân lại nhi vị văn địa lại, nhi vị văn thiên lại phù?’ Người có nghe tiếng sáo người nhưng chưa nghe tiếng sáo đất, người có nghe tiếng sáo đất nhưng chưa nghe tiếng sáo trời. Móc dầm trên sân vắng, dưới đất phục sẵn khí dương; Chính tiếng đàn kia níu giữ mùa thu ở lại.
II
Mời thu lưu luyến tới nhà Tây,
Chẳng hẹn thu âm đến trúc gầy,
Rụng lá sông Ngô lòng khách giục,
Níu đào hái cúc hứng thơ đầy,
Gió khua vang sáo trời trong sớm,
Sương xuống sân vàng đất khói bay,
Nhớ tiếng thu đưa dìu dặt điệu,
Tiếng đàn ai gửi chút thu nay.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ nhị
Lưu thu khiển quyến đáo Tây đường,
Vị hứa thương âm bí trúc đường,
Ngô thủy lạc phong thôi khách tứ,
Đào sơn thái cúc hứng thi chương,
Phong xao sảng lại lưu minh hiểu,
Lộ tẩm không đình địa phục dương,
Tiêu táp hoài thu xoang dật điệu,
Cầm thanh chính thị vãn thu phương.
BÀI 32
Bình giải: Giữ khẩn hoản mùa thu lại ở nhà phía Nam; Chưa cho Huyền Minh thần coi mùa đông hỏi thăm chốn cũ. Tiếng đàn dế quanh nhà của tạo hóa kêu vang: Dòng chữ nhạn lưng trời, phê điểm văn chương; Tiếng dây đàn vang ai oán của Chiêu Quân làm Ải Tần, Vạn Lý Trường Thành vang động. Quạt gặp lúc trời mát xui người cung Thượng Dương oán hờn. Thơ Bạch Cư Dị: ‘ Thượng Dương bạch phát nhân’. Đời Đường Minh Hoàng, Dương Quý Phi được vua yêu, cung Thượng Dương, Mai Phi và các cung nữ khác oán hờn vì vua không còn đến nữa, Nhớ trời thu trong sáng rót chén rượu trong. Tiệc rượu này chính là nơi níu kéo cảnh mùa thu.
III
Mời thu khẩn khoản đến nhà Nam,
Chẳng hẹn Huyền Minh chốn cũ thăm,
Bốn vách dế đàn vang tạo hóa,
Lưng trời nhạn điểm chữ văn chương,
Rung vang Tần Ải đàn căng tiếng,
Hờn oán Thượng Dương quạt mát lòng,
Trong sáng trời thu chung rượu trắng,
Cảnh thu vương vấn tiệc tương phùng.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ tam
Lưu thu khẩn hoản đến Nam đường,
Vị hứa Huyền Minh phỏng cựu đường,
Tử bích cùng cầm minh tạo hóa,
Bán không nhạn tự điểm văn chương,
Huyền đường kính xứ kinh Tần tái,
Phiên tại lương thời oán Thượng Dương,
Sảng lãng hoài thu châm tố nhưỡng,
Tửu đương chính thị bạn thu phương.
BÀI 33
Bình giải: Quyến luyến giữ mùa thu tới nhà phía Bắc. Chẳng chịu để cho Bạch Đế, vị thần làm chủ mùa thu vội lên đường. Trăng tỏ sao thưa chiến thuyền ôm hận. Tào Tháo khi đem chiến thuyền đóng trên sông Trường Giang, đêm trăng tỏ sao thưa cắp ngang ngọn giáo hát lời khẳng khái uất hận. Đầm trong núi tía gấm vóc nên thơ. Thơ Lý Bạch tả cảnh đầm Đào Hoa. Bóng hạc ngang trời, tỉnh mộng Xích Bích. Thơ Tô Đông Pha, bài Hậu Xích Bích phú: ‘Thích hữu cô hạc, hoành giang đông lai,’ Chợt có chim hạc lẻ loi bay ngang sông phía đông. Tiếng dế nửa đêm chạnh lòng Âu Dương. Bài Thu Thanh phú, Âu Dương Tu: ‘Thùy đầu nhi thụy, đãn văn tứ bích trùng thanh tức tức.’ Cúi đầu mà ngủ, chỉ nghe tiếng dế nỉ non kêu quanh bốn bức tường. Tình nhớ thu bồi hồi khôn xiết; Chỉ muốn thu vàng tỏa khắp bốn phương.
IV
Quyến luyến mời thu đến Bắc đường,
Chẳng cho thần Bạch Đế lên đường,
Sao thưa trăng tỏ lòng ôm hận,
Núi tía đầm trong thơ gấm vương,
Hạc vút bay tan mơ Xích Bích,
Dế đàn khuya vắng chạnh Âu Dương,
Tình thu lòng nhớ khôn bao nỗi,
Chỉ muốn thu vàng tỏa bốn phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ tứ
Quyến luyến lưu thu đáo Bắc đường,
Khẳng giao Bạch Đế sậu đăng đường,
Tinh hi nguyệt lãng mông đồng hận,
Sơn tử đàm thanh cẩm tú chương,
Hạc ảnh hoàn không tinh Xích Bích,
Cùng thanh bán dạ động Âu Dương,
Bổi hồi bất tận hoài thu tứ,
Trực dục kim thu đạt tứ phương.
BÀI 34
Bình giải: Mừng thu muốn thăm nhà thưởng ngoạn cảnh thu. Được thấy ánh trăng thu chiếu trên mặt ao. Bóng Nga tươi đẹp như gương ngọc ngà. Nhạc tiên giòn giả hòa khúc Nghê Thường. Điệu múa hát của Lê Viên tử đệ. Đường Minh Hoàng nằm mơ lên cung trăng xem quần tiên múa hát, tỉnh dậy nhớ lại cùng Dương Quý Phi sáng tác thành khúc Nghê Thường. Bến Hoàng Nê chở rượu say năm Nhâm Tuất. Tháng 10 năm Nhâm Tuất, Tô Đông Pha lại đi chơi sông Xích Bích: ‘Nhị khách tùng dư quá Hoàng Nê... thị huề tửu dữ ngư phục du.’ Hai bạn khách theo ta đến bến Hoàng Nê... rồi mang rượu, cá lại chơi sông Xích Bích một lần nữa. Lúc nửa đêm luyện thuốc thức tỉnh Tử Dương. Tử Dương chân nhân tên là Chu Nghĩa Sơn, tới núi Mộng Sơn hỏi bí quyết của Tử Cao về thuật trường sinh, Tử Cao bảo rẳng: “Tên của người đã có trong Đan đài Ngọc thất, lo gì mà không thành tiên”. Ông trở về luyện thuốc đan sa uống, rồi thành tiên. Vằng vặc ánh trăng phô vẻ lộng lẫy; Lầu họ Dữu có thể làm nơi thưởng ngoạn cảnh thu. Dữu Lượng đời Tấn làm quan ở Vũ Xương, đêm trăng lên lầu Nam ngâm khúc Giang Nam phú tỏ lòng nhớ quê hương.
I
Mời thu muộn đến viếng thu đường,
Được thấy ánh trăng hồ biếc vương,
Tươi đẹp gương Nga vầng ngọc sáng,
Du dương tiên nhạc khúc Nghê Thường,
Hoàng Nê chỡ rượu đêm Nhâm Tuất,
Luyện thuốc đêm tàn thức Tử Dương,
Vằng vặc ánh trăng phô lộng lẫy,
Lầu Nam Dữu Lượng cảnh thu phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ nhất
Hỉ thu dục phỏng ngoạn thu đường,
Ngoạn đắc thu quang nguyệt chiếu đường,
Nga ảnh thuyền quyên ngân ngọc kính,
Tiên âm hưởng lượng vũ nghê chương,
Hoàng Châu tái tửu hoàn Nhâm Tuất,
Ngọ dạ điều đan ngộ Tử Dương,
Cảnh cảnh thiềm huy thu thổ diệm,
Dữu lâu khả thị ngoạn thu phương.
BÀI 35
Bình giải: Mừng thu, muốn thăm ngôi nhà phẩm bình cảnh thu. Thưởng thức tình thu khi tuyết nhuốm mặt đường. Ruổi lừa trên cầu Bá Thủy gợi tứ hay cho khách làng thơ. Thi Thoại chép: “Có người hỏi tứ thơ Trịnh Khải thì ông trả lời: ‘Tại Bá Kiều phong tuyết trung lư tứ bá thượng.’ Tứ thơ của tôi là lúc ngồi trên lưng lừa trong gió tuyết ở trên cầu Bá Thủy. Dừng ngựa ở cửa Lam Quan thành văn đẹp của kẻ trực thần. Đời Đường, Hàn Dũ bị biếm truất đi làm thứ sử Triều Châu, khi ông đi qua Lam Quan gặp tuyết xuống nhiều, ngựa không biết đường đi, ông ngâm thơ: ‘Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiến.’ Tuyết đọng Lam Quan ngựa không tiến được. Sương lạnh xuống không gian thành mầu bạc. Bình minh che vừng hồng gay gắt. Cồn muối trắng xóa lóng lánh dưới trời thu; Vườn Lương kia có thể là nơi phẩm bình vẻ thu. Thơ Đỗ Phủ: ‘Túy vũ Lương viên dạ’. Đêm say rượu múa ở vườn Lương.
II
Mừng thu muốn viếng phẩm thu đường,
Thưởng thức tình thu tuyết nhuộm đường,
Bá Thủy ruổi lừa thi khách hứng,
Lam Quan dừng ngựa khúc thần chương,
Bầu trời bàn bạc màu sương lạnh,
Nắng sớm mờ che khuất ánh dương,
Cồn muối trắng tinh thu lóng lánh,
Vườn Lương bình phẩm cảnh thu phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ nhị
Hỉ thu dục phỏng phẩm thu đường,
Phẩm đắc thu tình tuyết nhiểm đường,
Bá Thủy khu lư thi khách tứ,
Lam Quan ủng mã trục thần chương,
Hàn sương điểm tựa ngân hồ giới,
Hiểu lậu già hồi hỏa tản đương,
Kiểu kiểu diêm đôi thu tích oánh,
Lương viên khả thị phấm thu phương.
BÀI 36
Bình giải: Mừng thu muốn thăm ngôi nhà đùa cảnh thu; Đùa được tiếng thu khi mưa trút xuống ao. Chiếc áo kẻ đi muôn dậm, hồn nhớ đến làng nước. Con thuyền bơi giữa sông trên bóng nước mây. Khí lạnh đưa cánh chim nhạn quay về Hành Lĩnh. Hành Lĩnh có ngọn núi Hồi Nhạn Phong, mùa xuân chim nhạn từ phía Nam về đó đậu trên bãi Bình Sa, sang mùa thu lại bay về phương Nam. Buổi chiều mặc áo tơi làng chài ra sông Vị Dương, bắc bờ sông Vị, nơi Lã Vọng nhà Chu thường ra câu cá. Giải mũ ngọc lồng lộng có nước thu giặt sạch; bài ca Thương Lang. Kinh Thi: Nước sông Thương Lang đục thì ta rửa chân, trong thì ta giặt giải mũ. Đình Âu Dương có thể là chốn đùa thu. Âu Dương Tu văn hào đời Tống có viết bài ‘Túy Ông đình ký’ nổi tiếng.
III
Mừng thu muốn đến viếng thu đường,
Đùa tiếng thu, ao mưa trút tuôn,
Vạn dậm người đi thương nhớ nước,
Nửa dòng thuyền lướt bóng mây vương,
Nhạn về Hàn Lĩnh trời se lạnh,
Tơi nón Vị Dương bóng xế buông,
Giải mũ thong dong thu giặt sạch,
Đùa thu chốn ấy đình Âu Dương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ tam
Hỉ thu dục phỏng lộng thu đường,
Lộng đắc thu thanh vũ tả đường,
Vạn lý chinh san hương quốc mộng,
Bán giang du khả thủy văn chương,
Hàn xung nhạn thỉ quy Hành Lĩnh,
Vãn phóng ngư soa xuất Vị Dương,
Lạc lạc châu anh thu tẩy tịnh,
Âu đình khả thị lộng thu phương.
BÀI 37
Bình giải: Mừng thu, muốn hỏi thăm nhà thưởng thức cảnh thu; Thưởng thức lòng nhớ thu khi nước dâng tràn ao. Dòng đầy trong veo như sắc ngọc lê; Gợn sóng lóng lánh, tựa vẻ gấm thêu. Buồm loan soi ngược bóng nước trong nghìn đợt sóng trăng. Trên cột buồm có treo con chim loan bằng gỗ, đuôi chim bằng vải đỏ như lá cờ đuôi nheo, gió hướng nào chim theo chiều ấy nên gọi là buồm loan. Sáo chài thổi trong buổi chiều tàn chỉ còn vệt nắng chiều. Mênh mông giòng sông xanh thu chuyển màu biếc; Bãi sông Tương Giang kia có thể là nơi thưởng thức cảnh thu. Sông Tương từ phía bắc Quế Lâm chảy vào hồ Động Đình, các sứ đoàn nước ta Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm đều dùng thuyền đi trên sông này. Tiêu Tương bát cảnh tả 8 cảnh đẹp trên sông Tiêu Tương.
IV
Mừng thu muốn hỏi thưởng thu đường,
Thưởng thức tình thu ao nước tràn,
Lắng đọng nước trong như sắc ngọc,
Long lanh gợn sóng gấm thêu chương,
Buồm loan in bóng trăng nghìn dậm,
Tiếng sáo chài ngưng vệt nắng tàn,
Bát ngát dòng xanh thu sắc biếc,
Cảnh thu nơi thưởng ngoạn sông Tương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ tứ
Hỉ thu dục phỏng thưởng thu đường,
Thưởng đắc thu hoài thủy phiếm đường,
Uông phái trừng ngưng lê hợp sắc;
Tình văn đãng dạng cẩm thi chương,
Loan phàm tẩm đáo thiên ba nguyệt,
Ngư địch suy tàn nhất mạt dương,
Diểu diểu hám lưu thu dạng bích;
Tương châu khả thị thưởng thu phương.
BÀI 38
Bình giải: Mừng thu muốn hỏi thăm ngôi nhà ngắm thu; Ngắm được dáng thu cây ở bên ao. Móc điểm hoa cúc thành muôn hạt châu. Mây lồng bóng cây thông nổi nghìn vẻ biếc. Thơ khuê các đề vào lá buông theo dòng nước. Tích Hồng diệp lương môi, lá đỏ người mối tốt: Hàn Thúy Tần cung nữ thời Đường Hy Tông đề thơ vào chiếc lá đỏ thả theo dòng ngự câu, chàng thư sinh Vu Hựu nhặt được trả lời theo dòng nước chảy vào cung, nhân dịp vua thải ba nghìn cung nữ, Hàn gặp Vu kết thành vợ chồng. Sáo mục đồng xuyên qua rừng tiễn đưa bóng chiều. Cành cao vươn lên được khí thu chung đúc; Núi Nam có thể là nơi ngắm cảnh thu.
V
Mừng thu muốn hỏi viếng thu đường,
Ngắm dáng thu cây bên ao vườn,
Móc điểm cúc thành châu vạn hạt,
Mây lồng thông nổi biếc xanh ngàn,
Thơ khuê theo lá trôi giòng nước,
Sáo mục xuyên rừng tiễn ánh dương,
Chung đúc khí thu cây vút ngọn,
Núi Nam nơi ngắm cảnh thu phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ ngũ
Hỉ thu dục phỏng diếu thu đường,
Diếu đắc thu dung thụ sáp đường,
Lộ xuyết cúc anh châu vạn điểm,
Vân lung tùng cải bích thiên chương,
Khuê thi đề diệp tùy lưu thủy,
Mục địch xuyên lâm tống tịch dương,
Đĩnh đĩnh kiều kha thu dục tú,
Nam sơn khả thị diếu thu phương.
BÀI 39
Nguyên dẫn: Vừa nghe quý sảnh bị mệt, đang phải điều trị, kính chúc chóng lành. Hiện nay ở thành công việc bề bộn cấp bách, mong xe thai huynh tới sớm để giúp cho mọi việc giao tiếp được thỏa lòng người trông vào. Đó là điều tha thiết mong thai huynh chú ý. Tinh thần tình cảm của chúng ta cùng với nguyên khí thái hòa chu toàn cho nhau, lòng thành khôn xiết, mạnh mẽ không ngừng, anh hoa tinh túy vẫn không suy suyển. Còn khí huyết trong cơ thể hoặc bị phong sương trêu cợt, thì cũng vẫn là chuyện có thể đùa cợt được, nhưng đạo thì không thể đùa cợt được. Bậc chí nhân có thể hội được cái đạo. Cần gì phải dùng tới lời lẽ mơn trớn. Kính theo vần cũ, làm thơ thay lời vấn an, mong thai huynh soi xét cho.
Bình giải: Nhuần nhã như ngọc, vững chắc như núi rất đường hoàng; Không thể đem sánh với tuyết nguyệt thanh hư. Đi đúng khuôn phép thực đụng đạo lý; Phun châu nhã ngọc thảy đều là văn chương. Tùng bách xanh tốt già giặn vượt qua năm rét; Duyên hống luyện đan đã thành, nuôi khí dương mạnh. Duyên là chì hống là thủy ngân, nhà Đạo ngày xưa dùng hai vị này luyện thành thuốc trường sinh, do đó người ta dùng hai chữ này nói bóng là phương thuốc tiên. Kiến thức ngày nay cho biết chì, thủy ngân, vàng là những chất cực độc cho cơ thể, Tần Thủy Hoàng vì nghe lời các Đạo sĩ dùng thuốc này nên đã sớm “quy tiên”. Huyết khí như huynh không cần thuốc. Giữ mình sẵn có phương Thái hòa rồi. Thiệu Ung thời Tống uống rượu điều độ, ông gọi rượu là “thái hòa thang”, tác giả muốn nói điều độ là phương thuốc tốt.
Ngọc nhuần non vững dáng đường đường,
Chẳng sánh như trăng tuyết vô thường,
Đi đứng phép khuôn theo đạo lý,
Phun châu nhã ngọc thảy văn chương,
Bách tùng già vượt qua cơn rét,
Duyên hống luyện đan nuôi khí dương,
Huyết khí anh không cần đến thuốc,
Giữ mình sẵn có Thái hòa phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Ngọc ôn, sơn trĩ tối đường đường,
Bất tỉ thanh hư tuyết nguyệt đường,
Toàn củ hành quy chân đạo lý,
Khái châu thóa bích tẫn từ chương,
Bách tùng thương lão lăng hàn tuế,
Duyên hống đan thành dưỡng kiện dương,
Vinh vệ như công, tri vật dược,
Bảo cung nguyên hữu thái hòa phương.
BÀI 40
Nguyên dẫn: Nghĩa lý thánh hiền đưa ra, phần nhiều mượn tình nam nữ để mở đầu. Nếu không nghiên cứu cùng cực ý sâu xa của kinh truyện thì sao mà biết được. Chúng ta do cảm xúc truyện nàng Hồ Dương mà làm, góp nhặt được nhiều bài, đại để mượn đề tài khởi hứng để bày tỏ tấm lòng, song qui tụ tại vẫn không vượt ra ngoài đạo lý đó. ”Năm bài sở cầu của nàng Hồ Dương” (Cầu minh, Cầu hương, Cầu quang, Cầu thanh, Cầu âm) mà thai huynh gửi cho trước đây và “Ba bài sở đắc” của nàng Hồ Dương (Nhãn thi, Nhĩ thi, Tỵ thi) do tôi nối thêm đã giải bày được đầy đủ ý đó. Nay tôi lại tiếp được quí thư nối thêm cái ý “hữu dư, bất tận”, nói đi nói lại biện bạch rõ ràng, ân cần điềm tỉnh con mắt mù quáng của kẻ kiến thức nông cạn, đó chính là thai huynh đã đem nghĩa lý văn học, nhận làm điều lo lắng của mình rồi sáng tác thành “Ngũ khởi “ trong Ngũ kinh, phát huy được nghĩa lý kinh ra rộng rãi, đủ để hưng khởi tình người. Tôi liền nghĩ thêm bốn bài thơ, đầu đề rút trong truyện, nối điêu kính trình, hoặc giả có thể biên thành một tập tóm tắc về ý nghĩa kinh truyện để công bố với người đời chăng? mong xét kỹ.
Bình giải: Ngũ Khởi: năm kinh Khổng Tử san định đều mượn tình nam nữ để khởi đầu: 1. Kinh Thi khởi đầu bài: Quân tử hảo cầu, 2. Kinh Thư khởi: Nhị nỡ ly gián, 3. Kinh Dịch khởi: Đế Ất qui muội. Kinh Xuân Thu khởi: Văn Khương hội Tề Hầu. Kinh Lễ khởi: Nội tắc thiếp tuy lão niên vị ngũ thập tất nghi ngũ nhật chi ngự.
Nối điêu: Điêu là một loài chồn đuôi to lông dài. Xưa ờ Trung Quốc những quan hầu bên vua trên mũ có đuôi điêu. Đến đời Triệu Vương Luân cướp ngôi Tấn, dùng nội thần nhiều quá quan chức có đuôi điêu đầy triều, người đời chế diễu: Đuôi điêu không đủ phải nối đuôi chó vào. Đời sau người họa thơ thường tự khiêm nhường: Tục điêu (nối điêu).
Trang phục lộng lẫy bạn với chốn buồng the. Nào phải hoa tàn vất trong ao hẻo lánh. Tính nết quân tử đâu phải đôi mắt lạnh lùng. Cái nhìn và nụ cười mỹ nhân đều có vẻ xinh đẹp. Mối duyên tốt ưa chuộng mong sao về với ta. Ý chân thành không dối trá dám đâu che đậy. Thánh hiền dạy rõ cái tình yêu ghét chân thật. Từ lòng chân chính suy ra cho phép trị nước bình thiên hạ.
Bài thơ này phá bỏ những hiểu lầm về người quân tử với sắc đẹp phụ nữ. Người quân tử không lạnh lùng với sắc đẹp, người phụ nữ khi có chồng cũng không buông thả bỏ lún sắc đẹp mình như hoa tàn trôi trên ao; trái lại phải biết trang phục lộng lẫy, ánh mắt nụ cười vui tươi xinh đẹp với chồng. Yêu chuộng mong mối duyên tốt lành. Ý chân thành không dối trá che đậy. Thánh hiền dạy yêu ghét chân thật. Người quân tử có: Cách vật, Trí tri, Chánh tâm, Thành ý giỏi Tề gia mới Trị quốc, Bình thiên hạ được,
SÁCH ĐẠI HỌC NÓI: NHƯ THÍCH SẮC ĐẸP
Phục trang lộng lẫy bạn liêm đường,
Chẳng phải hoa tàn ao vắng tanh,
Quân tử tình không đôi mắt lạnh,
Mỹ nhân môi nở nụ cười xinh,
Đáng yêu duyên tốt cùng ta đến,
Không dối chân thành đâu dám che,
Yêu ghét thật chân hiền thánh rõ,
Tự lòng suy mới Trị Bình Thiên.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
ĐẠI HỌC: NHƯ HIẾU HẢO SẮC
Nùng trang xiển phục bạn liêm đường,
Bất thị tàn hoa ủy tích đường,
Quân tử tính tình phi lánh nhãn,
Mỹ nhân miện tiếu hữu hoa chương,
Thiện đoan khả thượng cầu quy ngã,
Thành ý vô khi cảm yểm dương,
Hiền truyện hiếu minh chân hiếu ố,
Tâm quynh suy đáo Trị Bình phương.
BÀI 41
Bình giải: Sách Trung Dung nói: Người quân tử khởi đầu từ đạo vợ chồng. Bắt đầu từ khuê phòng ra đến cổng nhà. Muôn nghìn lối đều bắt đầu từ đường đó. Vui tiếng chuông, bạn tiếng đàn lòng trước hết ngay thẳng. Kinh Thi thơ Quan Thư: Yểu điệu thục nữ, cầm sắt hữu chi... Yểu điệu thục nữ, chung cổ lạo chi, (Cô gái yểu điệu, cùng tiếng đàn cầm, đàn sắt làm bạn với cô... cô gái yểu điệu, cùng tiếng chuông tiếng khánh làm vui lòng cô). Đi đúng khuôn, làm đúng thước, đức luôn luôn sáng láng. Bản thể của đạo lưu hành đầy cả trời đất. Máy tạo hóa vận động là hai khí âm dương. Lời nói hiền giả, chỉ rõ cái ý chi; bay cá nhảy. Người hiền chỉ vào Tử Tư người xưa cho là tác giả sách Trung Dung. Sách Trung Dung viết: Đạo của người quân tử rộng mà bí ẩn... Kinh Thi có câu: Chim bay trên trời cao, cá nhảy vực sâu. Là ý nói trời ở trên, đất ở dưới rất rõ rệt. Nghĩa lý tinh vi nên tìm chỗ rộng mà bí ẩn.
SÁCH TRUNG DUNG NÓI:
NGƯỜI QUÂN TỬ KHỞI ĐẦU TỪ VỢ CHỒNG
Khuê thất khởi đầu đến cổng nhà,
Muôn đường vạn lối bắt đầu ra,
Vui chuông cầm sắt lòng ngay thẳng,
Đi đứng thước khuôn đức sáng lòa,
Bản thể đạo lưu hành vũ trụ,
Âm dương khí tạo hóa điều hòa,
Chim bay cá nhảy lời hiền giả,
Nghĩa lý tinh vi rộng thấu xa.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
TRUNG DUNG: QUÂN TỬ CHI ĐẠO TẠO ĐOAN HÔ PHU PHỤ
Khuê thất đoan nghê xuất hộ đường,
Thiên kỳ vạn triệt khởi sơ đường,
Lạo chung hữu sắt tâm tiên chính,
Đạo củ tuần quy đức nhật chương,
Đạo thể lưu hành sung thượng hạ,
Hóa cơ manh động lưỡng âm dương,
Hiền ngôn chỉ thị diên ngư chỉ,
Tinh nghĩa tu cầu phí ẩn phương.
BÀI 42- 43 (.... )
BÀI 44
Nguyên dẫn: Tiễn thu, lưu thu, tiếc thu, mừng thu: chúng ta đối với mùa thu rất chí tình đâu chỉ một ý mà thôi. Ý của thai huynh lại ngâm thành 5 bài. Cầm, kỳ, thi, họa, tửu và lấy cái ý ‘đón thu về’ để khởi hứng. Tình quyến luyến đối với mùa thu thật tha thiết.
Đệ trộm nghĩ: Cầm, kỳ, thi, họa, tửu, người ta ai cũng thích, không lúc nào không. Nay mùa thu đã đi, thần Bạch Đế quay yên ngựa trở về, chẳng sao giữ lại được, ta cũng nên chung vui cùng thời gian, bất tất phải nhớ thu. Vậy nối 5 bài ‘Bất tất’, kể qua chút niềm quê, mong được soi tỏ.
Bình giải: Thu về bất tất phải tới nhà gảy đàn. Điệu đàn du dương đưa tới bờ ao cỏ xanh. Tiếng cung, tiếng chủy quyện nhau nên xoang điệu hay. Cung thương là hai âm nói tóm lại Ngũ âm: cung. thương, giốc, chủy, vũ. Đàn không hầu theo nhịp phách phổ vào bài ca mới. Đàn không hầu là cây đàn 25 dây do Hầu Huy sáng chế thời Hán Vũ Đế. Phong lưu vượt bực tranh với thời Đông Tấn. Thời Đông Tấn có 4 họ phong lưu phú quý, sành âm nhạc là, Vương, Tạ, Đào, Nguyễn, Thanh luật có thể dâng trước đấng Thái Dương. Thái Dương chỉ vua Thai đế tức Phục Hy. Sách Hán Thư: Thai đế sai tố nữ gảy đàn 50 dây; thấy tiếng đàn ai oán bèn phá đi, chế thành đàn sắt 25 dây. Vui đời thái bình tiếng đàn thanh thót cả bốn mùa. Thu tàn há thiếu phương pháp tu dưỡng tính tình.
I
Thu về chẳng phải đến cầm đường,
Đàn điệu du dương đến thảo đường,
Cung chủy quyện nhau nên nhã điệu,
Đàn không nhịp phách phổ văn chương,
Phong lưu vượt bậc tranh Đông Tấn,
Thanh luật khôn dâng đấng Thái Dương,
An lạc bốn mùa đàn thánh thót,
Thu tàn đâu thiếu dưỡng tình phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Thu hồi bất tất đáo cầm đường,
Cầm vận phiêu dương thúy thảo đường,
Cung chủy tuyển âm xoang nhã điệu,
Không hầu án phách phả tân chương,
Phong lưu áp trực tranh Đông Tấn,
Thanh luật do kham tiến Thái Dương,
Lạc thế hòa bình thông tứ tự,
Thu tàn khởi phạp dưỡng tình phương.
BÀI 45
Bình giải: Thu về, bất tất phải tới nhà đánh cờ. Bóng bàn cờ thấp thoáng bên bờ liễu xanh. Thế cuộc như mây như gió, người ngoài nhìn thấy rõ. Lối trận nào xe ngựa vẻ thành bản đồ. Mấy ai nén tình riêng ngồi chơi cờ ở biệt thự trên núi, Sách Tấn Thư. Tướng Tần là Bồ Kiên đem quân vào cướp phá nhà Tấn. Vua Tấn phong Tạ An làm Tư Mã giúp tướng Hoàn Ôn đánh giặc. An là người có mưu lược, khi giặc tiến công mà An vẫn ngồi đánh cờ ở biệt thự trên núi, nhưng lúc đó An đang nghĩ cách đánh giặc. Sau Bồ Kiên thua to phải rút chạy. An lập được chiến công hiển hách, được tiến phong đến hàm Thái phó. Cần gì phải nói tới tay cừ khôi ở Hải Dương. Giai thoại chép Vũ Huyên làng Đan Luân, huyện Đường An, xứ Hải Dương. Đỗ tiến sĩ đời Lê là người rất cao cờ. Một hôm vua đánh cờ tiếp sứ Mãn Thanh, Vũ Huyên được làm vệ sĩ cầm lọng. Ông chọc thủng lọng cho một đóm sáng lọt xuống bàn cờ để chỉ nước cờ cho vua, kết quả vua Lê thắng. Nhìn kỷ được thua, để tiêu khiển canh dài. Thu tàn, há thiếu cách an nhàn. Bài thơ này Phan Huy Ích muốn nói ông tuy quy ẩn nhưng vẫn lo việc thế sự như Tạ An đánh cờ trên núi. Như Vũ Huyên cầm lộng giúp vua đánh cờ, người đứng ngoài sáng nước hơn người trong cuộc.
II
Thu về chẳng phải đến kỳ đường,
Thấp thoáng bàn cờ dưới liễu buông,
Thế cuộc gió mây ngoài thấy rõ,
Trận nào xe ngựa vẽ thành chương,
Nén lòng cờ vẫn nơi sơn thự,
Chẳng nói tay cừ xứ Hải Dương,
Nhìn kỷ được thua đêm thức trắng,
Thu tàn đâu thiếu cảnh nhàn phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ nhị
Thu hồi bất tất đáo kỳ đường,
Kỳ ảnh đê hồi lục liễu đường,
Cục thế phong vân, bàng dị liệu,
Trận đồ xa mã họa thành chương,
Kiểu tình kỳ đắc vi sơn thự,
Khôi thủ hà tu thuyết Hải Dương,
Đồ trước doanh thâu tiêu vĩnh lậu,
Thu tàn khởi phạp yến nhàn phương.
BÀI 46
Bình giải: Thu về, bất tất phải tới ngôi nhà làm thơ. Tứ thơ trong như làn móc trắng nổi bên đường. Đình vắng bốn mặt, ấy là chốn ngâm vịnh. Mực mới, vài cuốn giấy đó là thơ xướng thù. Không đòi hỏi thanh vận phải khéo như đời xưa, Cần làm cho tinh thần vận động khí dương mạnh lên. Theo năm tháng khách thơ tiêu khiển thi hứng. Thu tàn há thiếu chốn vịnh ca.
III
Thu về chẳng phải đến thi đường,
Thi tứ nổi làn móc trắng vương,
Đình vắng bốn bề thơ vịnh cảnh,
Vài trang mực mới xướng thù chương,
Không đòi thanh vận như đời cũ,
Cần chút tinh thần mạnh khí dương,
Tao khách tháng năm tiêu khiển hứng,
Thu tàn há thiếu chốn ca phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Thu hồi bất tất đáo thi đường,
Thi tứ thanh phù bạch lộ đường,
Tứ cố không đình ngâm khiếu xứ,
Sổ biên tân mặc xướng thù chương,
Bất tương thanh vận công cầu cổ,
Yếu sử thần tình kiện vận dương,
Tao khách tuế thời câu khiển hứng,
Thu tàn khởi phạp vịnh ca phương.
BÀI 47
Bình giải: Thu về bất tất phải tới ngôi nhà vẽ. Cảnh như vẻ lóng lánh trên ao sen rực rỡ. Mô tả cảnh xưa nay vào cuốn tranh. Điểm xuyết non sông thấy trên bản đồ. Tinh thần rồng lân trên vách muốn sống lại. Bóng hoa cỏ trong động vẫn theo mặt trời, Ngọn bút đẹp Võng Xuyên để lại thú thưởng thức thanh nhã, Vương Duy đời nhà Đường thơ hay vẽ giỏi người đời ca ngợi “ Thi trung hữu họa, họa trung hữu thi “, ông có bức tranh vẽ cảnh Võng Xuyên rất thần kỳ. Trong bài dùng chữ Võng Xuyên để chỉ Vương Duy. Thu đi rồi lẽ nào không có nơi thưởng ngoạn.
IV
Thu đến chẳng nên đến họa đường,
Cảnh quang lóng lánh rực ao sen,
Cảnh xưa mô tả tranh vào trục,
Sông núi điểm tô bản thảo chương,
Trên vách rồng lân thần khí sống,
Trong hang hoa cỏ hướng vầng dương,
Võng Xuyên bút đẹp tranh thanh nhã,
Chẳng lẽ thu tàn chẳng ngoạn phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ tứ
Bất tất thu hồi đáo họa đường,
Họa quang yểm ảnh thái liên đường,
Miêu mô kim cổ quy đồ trục,
Điếm xuyết giang sơn kiến bản chương,
Bích thượng long lân thần dục hoạt,
Động trung hoa thảo ánh tùy dương,
Võng Xuyên diệm bút lưu thanh thưởng,
Thu khứ ninh vô triển ngoạn phương.
BÀI 48
Bình giải: Thu về bất tất phải tới quán rượu. Hứng rượu tràn trề trên ao sóng xanh. Món nợ tầm thường của ông Đỗ Phủ đem áo đổi luôn. Thơ Khúc Giang của Đỗ Phủ: “Khi triều cận trở về ngày ngày vẫn cầm bán áo xuân”. “Món nợ tầm thường tới đâu cũng có”. Tính chân thật của ông già Ôn, uống có phép tắc. Ông già Ôn tức Tư Mã Quang, cùng với Văn Ngạn Bác và mấy hưu quan già lập Hội Kỳ Anh ở Lạc Dương, thường uống rượu cùng vui, trọng tuổi nhiều chứ không trọng chức tước cao. Tỉnh ngộ được giấc mộng hiền thánh ở trên mình. Sách Tam Quốc Chí: Tiên Vu Phụ nói: Bình nhật đãi rượu khách ai uống mà tỉnh là thánh nhân, say là hiền nhân. Nuôi khí ấm thái hòa trong tính. Thiệu Ung thời Tống gọi rượu là thái hòa thang. Mấy chén rượu ngon tiêu khiển mãi. Thu rồi lẽ nào không có cách khuyên uống say.
V,
Thu về chẳng phải đến tửu đường,
Tràn trề hứng rượu sóng ao xanh,
Nợ thường ông Đỗ áo đem đổi,
Chân thật già Ôn uống có chừng,
Hiển thánh mộng thành khi tỉnh ngộ,
Thái hòa nuôi dưỡng tính trung dương,
Rượu ngon nâng chén cùng tiêu khiển,
Chẳng lẽ thu đi say chẳng khuyên.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ ngũ
Bất tất thu hồi đáo tửu đường,
Tửu hoài phiếm lạm bích ba đường,
Tầm thường Đỗ trái y tần hoán;
Chân suất Ôn kỳ ẩm hữu chương,
Hiển thánh ngộ thành thân thượng mộng,
Thái hòa dưỡng đắc tính trung dương,
Lục linh kỳ đẩu trường tiêu khiển,
Thu khứ ninh vô khuyến túy phương.
BÀI 49
Nguyên dẫn: Tôi sống trong cảnh buồn kéo dài, không rảnh rỗi để bàn luận về thơ. Vừa mới đây nhân hứng thu làm thơ xướng họa qua lại, được nghiên cứu tới chỗ uẩn súc của tính tình. Thai huynh dạy rằng: Những chổ chúng ta tương đắc, có thể lấy ý mà lãnh hội chớ không thể lấy lời nói mà truyền đạt. Thật là lời bàn xác đáng. Mong sao chúng ta được tụ họp ung dung, cùng nhau dò tới nguồn văn, tìm tòi đạo lý, dốc hết công phu học tập của tuổi già để dạy dỗ con cháu hai nhà. Đó là cái thú vui thực sự trong ý tưởng của tôi. Xin nối vần cũ, kính đợi xem cho.
Bình giải: Điểm xuyết màu thu trong mát ở nhà thưởng hoa cúc. Ống thơ cứ liên tiếp gửi ra đường trạm. Cùng suy ngẫm sửa nghiêm chỉnh bản tính, bảo tồn tinh thần. Đâu phải học bài chọn tiếng cho hay, đặt chữ cho tinh luyện. Bút mực không hại gì khi rong chơi nơi lầu ngọc. Ngọc thự là Viện Hàn Lâm nơi làm việc các quan. Nhìn khói ráng chiều há phải hỏi thăm đến phía Nam núi Hoa Sơn. Hoa Sơn là một ngọn núi trong Ngũ Nhạc, Trung Quốc; Trần Đoàn tu tiên ở đó. Trong bài biểu ông tạ ơn vua Tống sai sứ mang trà và thuốc, có câu: “Vịnh khiếu nhạt nguyệt chi thanh; Tiếu ngạo vân hà chi biểu. ” Ca vịnh về trong sáng của mặt trời, mặt trăng; Cười bởn bên ngoài cảnh mây khói. Cõi trần bận rộn mấy khi được vui vẻ xướng họa; Trong ba mươi năm lại đây kinh lịch mọi nơi. Kinh lịch nguyên văn ‘bạt lý’. Sách Tả Truyện: Văn công hoàn giáp trụ, Bạt lý sơn xuyên. Văn công mình mặc giáp trụ, kinh lịch khắp sông núi.
Điểm xuyết tiếng thu nơi cúc đường,
Ống thơ liên tiếp gửi bưu đường,
Cùng nghiên chính tính giữ thần trí,
Chẳng học lời hay luyện tứ chương,
Bút mực hại gì nơi Tháp Ngọc,
Ráng chiều ai hỏi núi Hoa Sơn,
Cõi trần bận rộn vui thơ họa,
Ba mươi năm đã bạt ngàn phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Điếm xuyết thanh thu thưởng cúc đường,
Thi đồng lạc dịch xuất bưu đường,
Đồng nghiên chính tính tồn thần xứ;
Không hiệu công thanh luyện tự chương,
Hàn mặc bất phương du ngọc thự,
Yên hà khởi tất phỏng Hoa dương,
Trần mang ký đắc canh thù lạc,
Tam thập niên lai bạt lý phương.
BÀI 50
Nguyên dẫn: Phụng tiếp được tờ sao báo trước có mệnh vua gọi, nghĩ rằng thai huynh vì ý muốn ở lại của đệ mà phải thân hành đi thay chuyến này. Cả hình thức lẫn tinh thần đều nhờ cậy đến mức ấy, khiến đệ phải trằn trọc suy nghĩ. Dám xin nối vần thơ trước để tỏ sẵn tình ly biệt. Ngoài ra đợi gặp lại sẽ nói hết.
Bình giải: Trạm truyền lệnh ruổi nhanh như gió từ sở triều chính. Bổng cảm khái kẻ ở người đi trên đê liễu mai. Vương Duy đời Đường bẻ cành liễu tặng người đi xa; Lục Khải đời Tấn bẻ cành mai tặng bạn đều có thơ cảm hứng. Biện luận cương giới, tôi đây chưa tới quan ải được. Vào chầu cửa khuyết anh mang tờ chiếu đi trước. Sao Khuê, sao Lâu ngoài sông Ngân Hán chầu quanh sao Bắc Đẩu. Sao Bắc Đẩu ví với vua, sao Khuê, sao Lâu ví các quan. Cây khói cửa Đồng cách hẵn đất Hàm Dương. Cửa Đồng ớ phía Nam núi Họa Sơn có từ đời Hán. Nơi ông đang quy ẩn cách xa kinh đô Phú Xuân. Nhà Thừa Minh. Viện Hàn Lâm bên cung vua nếu được hỏi đến công việc biên giới; thì dám xin đem ấn bạc, dấu đồng phục chức như xưa.
Như gió trạm truyền thư chính đường,
Người đi cảm khái liễu mai buông,
Luận bàn cương giới tôi chưa tới,
Cửa khuyết vào chầu anh biểu chương,
Sông Hán, Khuê, Lâu chầu Bắc Cực,
Cửa Đồng cây khói cách Hàm Dương,
Thừa minh nếu hỏi việc biên giới,
Thì dám ấn đồng phục chức chương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Bưu mệnh phong trì xuất chính đường,
Cư hành hổt cảm liễu mai đường,
Biện cương ngũ vị xu quan tải,
Cận khuyết công tiên phụng cáo chương,
Hán biểu Khuê Lâu hoàn Bắc Cực;
Đồng môn yên thụ cách Hàm Dương,
Thừa minh tuân cập biên phong tác;
Cảm bả ngân đồng phục chức chương.
Qua Cúc Thu bách vịnh, Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm không hoàn toàn quy ẩn, bỏ rơi triều Tây Sơn. Họ lui về Bích Câu mở nhà Học dạy con cháu, soạn sách để tránh sự chuyên quyền của Thái sư họ Bùi, tránh cuộc tranh chấp giữa tướng Trần Quang Diệu và tướng Vũ Văn Dũng nhưng khi triều đình cần đến việc ngoại giao với Trung Quốc về biên cương hai ông đều sẵn sàng đi ra. Khi triều Tây Sơn sụp đổ, vua Gia Long lên ngôi, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Nể đều được mời ra để hỏi việc bang giao đi sứ và họ nhường công việc đi sứ cho thế hệ em, con: Phan Huy Chú, Phan Huy Vịnh, Ngô Thì Vị, Nguyễn Du. Tầm vóc tư tưởng họ vượt qua thái độ “Trung thần bất sự nhị quân” cứng nhắc của hủ nho. Họ không phục vụ cho một triều đại, mà phục vụ cho đất nước Việt Nam,
Cúc Thu Bách Vịnh là một kiệt tác trong kho tàng Văn Học Chữ Hán Việt Nam. Thưởng thức những vần thơ Đường luật, những điển tích văn chương tích lũy kiến thức văn học Trung Quốc; những bài thơ ngắn gọn súc tích, hiểu những quan niệm người xưa về cái đẹp, về phụ nữ về thi ca, những trao đổi một đạo sĩ và một thiền sư điều này thú vị và hiếm có trong kho tàng văn học Việt Nam.
Paris 5/1/2018
PHẠM TRỌNG CHÁNH
TS Khoa Học Giáo Dục, Viện Đại Học Paris V Sorbonne
Xem online : Kỳ 1