Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Giáo dục > Viết > Tiếng Việt thời Alexandre de Rhodes (phần 6b)

Tiếng Việt thời Alexandre de Rhodes (phần 6b)

Thứ Năm 5, Tháng Bảy 2018, bởi Cong_Chi_Nguyen

2. Nhìn rộng ra các ngôn ngữ khác về cách gọi ngày

2.1 Truyền thống La Mã / Hi-Lạp

Trường hợp của tiếng Bồ-Đào-Nha (viết tắt là Bnh trong phần này). Tổng số dân theo CG trong nước Bnh, có truyền thống CG rất lâu đời, là 81% (thống kê năm 2011); so với thống kê 2014 ở VN, với truyền thống PG / Tam giáo, chỉ có khoảng 6.8% theo CG (Tin Lành 1.5%). Vị trí của VN và Bnh rất xa nhau, ở hai bên tây và đông của Âu châu và Á châu, và hai ngôn ngữ hoàn toàn không có liên hệ: thế mà cách gọi ngày của hai nước lại rất giống nhau! Ta hãy nhìn lại quá trình hình thành cách gọi ngày trong tiếng Bnh.

Xem qua các cách gọi tên ngày từ thứ hai đến chủ nhật của các ngôn ngữ La Mã (Romance languages) mà tiếng Bnh là một thành viên - tiếng Hi-Lạp chỉ dùng để so sánh:

  • Tiếng Hi-Lạp: ἡμέρᾱ Σελήνης hēmérā Selḗnēs (mặt trăng), ἡμέρᾱ Ἄρεως hēmérā Áreōs (sao Hoả), ἡμέρᾱ Ἑρμοῦ hēmérā Hermoû (sao Thuỷ), ἡμέρᾱ Διός hēmérā Diós (sao Mộc), ἡμέρᾱ Ἀφροδῑ́της hēmérā Aphrodī́tēs (sao Kim), ἡμέρᾱ Κρόνου hēmérā Krónou (sao Thổ), ἡμέρᾱ Ἡλίου hēmérā Hēlíou (thần mặt trời)
  • Tiếng La Tinh: dies lunae, dies Martis, dies Mercurii, dies Jovis, dies Veneris, dies Saturni, dies Solis
  • Tây-Ban-Nha: Lunes, Martes, Miercoles, Jueves, Viernes, Sabado, Domingo
  • Ý: Lunedi, Martedi, Mercoledi, Giovedi, Venerdi, Sabato, Domenica
  • Pháp: Lundi, Mardi, Mercredi, Jeudi, Vendredi, Samedi, Dimanche
  • Romanian (Lỗ-Ma-Ni): Luni, Marti, Miercuri, Joi, Vineri, Sambata, Duminica
  • Catalan: Dilluns, Dimarts, Dimecres, Dijous, Divendres, Dissabte, Diumenge - để ý là đặt chữ dies (ngày / L) trước cho tiếng Catalan còn để sau cho tiếng Pháp (dùng tiền tố và hậu tố để tạo chữ mới trong ngôn ngữ hoà kết)
  • Bnh cổ (Old Portuguese): Lues, Martes, Mércores, Joves, Vernes, Sábado, Domingo
  • Bnh hiện đại: Segunda-feira, Terca-feira, Quarta-feira, Quinta-feira, Sexta-feira, Sabado, Domingo
  • …v.v…

Có lẽ nên thêm cách gọi ngày trong tiếng Tagalog ở Phi-Luật-Tân (PLT) ở đây cho thấy ảnh hưởng ngôn ngữ của tiếng Tây-Ban-Nha - khi các thừa sai Tây phương (Tây-Ban-Nha) đến PLT truyền đạo CG. Tổng số bổn đạo CG ở PLT là 83% (năm 2015) rất đáng chú ý so với khi các giáo sĩ Tây-Ban-Nha đặt chân đến PLT vào khoảng thế kỉ XVI (năm 1521).

Tiếng Tagalog: Lunes, Martes, Miyercoles, Huwebes, Biyernes, Sabado, Linggo
So sánh với cách gọi ngày tiếng Tây-Ban-Nha, ta thấy một số tương quan ngữ âm dễ nhận ra như v thành b trong Tagalog, ie thành iye, ue thành uwe, j thành h, linggo là chủ nhật cũng có nghĩa là tuần lễ [1] trong Tagalog.

Trước thế kỉ XV, Bnh đã dùng tên ngày dựa vào tên các vị thần La Mã (cũng là tên các ngôi sao) như Luna là vị nữ thần mặt trăng (ngày thứ hai Lues / Bnh), Mars (sao Hoả, ngày thứ ba Martes), Venus (sao Kim, ngày thứ sáu Vernes) ... Tuy nhiên, vào thế kỉ XV, giám mục Martinho de Dume của thành Braga (Bnh) đã phản đối các tên thần "ngoại giáo" và đổi tên gọi ngày theo tiếng La Tinh CG (Liturgical Latin dùng trong dịp lễ CG):

  • Prima feria [2] (ngày thứ nhất - domingo/Bnh) - ngày nghỉ cho bổn đạo CG, dành cho Chúa Trời thành ra mới dùng chữ domingo
  • Secunda feria (ngày thứ hai - segunda-feira/Bnh)
  • Tertia feria (ngày thứ ba - terça-feira/Bnh)
  • Quarta feria (ngày thứ tư - quarta-feira/Bnh)
  • Quinta feria (ngày thứ năm - quinta-feira/Bnh)
  • Sexta feria (ngày thứ sáu - sexta-feira/Bnh)
  • Septima feria (ngày thứ bảy - sábado/Bnh) - sábado là ngày thứ bảy, có gốc là Sabbath hay là ngày nghỉ của dân Do Thái.

Tiếng Bnh trở thành ngôn ngữ phương Tây duy nhất dùng tên ngày theo số thứ tự và không dựa vào tên thần thánh cổ đại La Mã [3]. Các tên gọi trên cũng chính là các tên gọi ngày của tiếng Việt manh nha vào thế kỉ XVII khi các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo, phản ánh rõ nét ảnh hưởng tiếng Bnh và văn hoá CG thời trung cổ. Sau thế kỉ XVII thì ngày thứ nhất (ngày nhất lễ lạy, ngày Dominh) bắt đầu thay bằng chúa nhật hay là dịch nghĩa của ngày Dominh (PGTN), cách dùng này chỉ ổn định từ thế kỉ XX.

2.2 Truyền thống Germanic

Bảng tóm tắt bên dưới liệt kê tên gọi ngày trong các ngôn ngữ Germanic như tiếng Anh, Đức, Hà Lan ... Thứ tự là từ ngày thứ hai đến chủ nhật:

  • Tiếng Anh cổ (Old English): Mōnandæg, Tīwesdæg, Wōdnesdæg, Þunresdæg, Frīgedæg, Sæternesdæg, Sunnandæg
  • Tiếng Anh: Monday, Tuesday, Wednesday, Thursday, Friday, Saturday, Sunday
  • Tiếng Đức: Montag, Dienstag/Ziestag, Mittwoch/Wutenstag, Donnerstag, Freitag, Sonnabend/Samstag, Sonntag
  • Tiếng Hà-Lan: maandag, dinsdag, woensdag, donderdag, vrijdag, zaterdag, zondag
  • Tiếng Đan-Mạch: mandag, tirsdag, onsdag, torsdag, fredag, lørdag, søndag
  • …v.v…

Tên gọi ngày trong tuần là vấn đề rắc rối từ góc độ tôn giáo và văn hoá: tuy nhiên, tiếng Anh (và hầu hết các ngôn ngữ Germanic) vẫn duy trì nghĩa nguyên thuỷ tiếng La Tinh dies Solis (ngày mặt trời) hay Sunday. Khác với các ngôn ngữ La Mã đã đổi thành ngày đức Chúa Trời (dies Dominica/L) như đã bàn ở bên trên. Ngày thứ hai, tiếng Anh Monday (Moon’s day), là dịch nghĩa của tiếng La Tinh dies lunae (ngày mặt trăng). Ngày thứ bảy Saturday liên hệ đến thần La Mã Saturn (cũng là tên sao Thổ). Các ngày còn lại có gốc là tên gọi các thần của Norse, Anglo-Saxon ... Do đó tên gọi ngày hiện nay (vd. bảng so sánh ở trên) là kết quả của sự pha trộn giữa các tín ngưỡng và văn hoá cổ truyền Tây phương.

2.3 Truyền thống Ấn độ giáo

Một số ngôn ngữ ở Đông Á dùng tên thần từ Ấn độ giáo để gọi ngày, bảng so sánh bên dưới liệt kê từ ngày thứ hai đến chủ nhật (tóm tắt từ trang https://en.wikipedia.org/wiki/Names_of_the_days_of_the_week)

  • Tiếng Môn: တ္ၚဲ စန် [ŋoa cɔn] < tiếng Phạn candra, တ္ၚဲ အၚါ [ŋoa əŋɛ̀a] < Phạn aṅgāra, တ္ၚဲ ဗုဒ္ဓဝါ [ŋoa pùt-həwɛ̀a] < Phạn budhavāra, တ္ၚဲ ဗြဴဗ္တိ [ŋoa pɹɛ̀apətɔeʔ] < Phạn bṛhaspati, တ္ၚဲ သိုက်. [ŋoa sak] < Phạn śukra, တ္ၚဲ သ္ၚိ သဝ် [ŋoa hɔeʔ sɔ] < Phạn śani, တ္ၚဲ အဒိုတ် [ŋoa ətɜ̀t] < Phạn āditya
  • Tiếng Khmer: ថ្ងៃចន្ទ [tŋaj can], ថ្ងៃអង្គារ [tŋaj ʔɑŋkiə], ថ្ងៃពុធ [tŋaj put], ថ្ងៃព្រហស្បត្ណិ [tŋaj prɔhoə̯h], ថ្ងៃសុក្រ [tŋaj sok], ថ្ងៃសៅរ៍ [tŋaj saʋ], ថ្ងៃអាទិត្យ [tŋaj ʔaːtɨt]
  • Tiếng Thái: วันจันทร์ Wan Chan, วันอังคาร Wan Angkhān, นพุธ Wan Phut, วันพฤหัสบดี Wan Phruehatsabodi, วันศุกร์ Wan Suk, วันเสาร์, Wan Sao, วันอาทิตย์ Wan Āthit
  • Tiếng Lào: ວັນຈັນ [wán càn], ວັນອັງຄານ [wán ʔàŋkʰáːn], ວັນພຸດ [wán pʰūt], ວັນພະຫັດ [wán pʰāhát], ວັນສຸກ [wán súk], ວັນເສົາ [wán sǎu], ວັນອາທິດ [wán ʔàːtʰīt]
  • Tiếng Chăm: Thôm (để ý phụ âm đầu ch > th), Angar, But, jip, Suk, Thanưchăn (shani > thanư), Adit
  • Tiếng Mã-Lai: Isnin, Selasa, Rabu, Khamis, Jumaat, Sabtu, Ahad (gốc từ tên các vị thần trong tiếng Ả-Rập)
  • Tiếng Indonesia: Senin, Selasa, Rabu, Kamis, Jumat, Sabtu, Minggu (gốc Bồ-Đào-Nha domingo) hay Ahad
  • ...v.v...

Tiếng Việt là láng giềng lâu đời của các ngôn ngữ trên, nhưng tên gọi ngày lại hoàn toàn khác hẳn! Các lý do có khả năng giải thích hiện tượng này đã ghi trong mục 1 phần trên.

2.4 Cách gọi tên ngày trong tiếng Trung (Hoa), Nhật Bản, Hàn quốc

Có ít nhất 5 cách [4] gọi tên ngày trong tiếng Trung (Quốc). Phương pháp chính thức (tiếng TQ1) là dùng 星期 tinh kì với công thức là 星期[X], và thêm vào sau ‘tinh kì’ một số X như số 1 (nhất - để chỉ ngày thứ hai) cho đến số 6 (lục - để chỉ ngày thứ bảy), ngày chủ nhật là 星期日 tinh kì nhật hay 星期天 tinh kì thiên. Một phương pháp khác với công thức là 禮拜[X], không chính thức nhưng nhiều người dùng, là thêm số X vào 禮拜 lễ bái [5] để chỉ ngày. Tiếng Hán cổ (classical Chinese) lại dùng hệ thống gọi ngày theo 七曜 thất diệu, bảy thiên thể là mặt trời, mặt trăng và năm ngôi sao kim/mộc/thuỷ/hoả/thổ. Công thức gọi ngày là [Y]曜日: thay Y bằng tên của các thiên thể trên như 月曜日 nguyệt diệu nhật là ngày thứ hai, 火曜日 hoả diệu nhật là ngày thứ ba ... Một cách gọi tên ngày khác là dùng chữ chu [6] 週 (hay 周 hàm ý tuần hoàn) với công thức 週[X]: thay X bằng con số để chỉ ngày như X là nhất (số một để chỉ ngày thứ hai -週一 chu nhất là ngày thứ hai), X là nhị (hai để chỉ ngày thứ ba). Bảng so sánh bên dưới liệt kê từ ngày thứ hai đến chủ nhật:

  • Tiếng TQ1: 星期一 tinh kì nhất, 星期二 tinh kì nhị, 星期三 tinh kì tam, 星期四 tinh kì tứ, 星期五 tinh kì ngũ, 星期六 tinh kì lục, 星期日 tinh kì nhật
  • Tiếng TQ2: 週一 chu nhất, 週二 chu nhị, 週三 chu tam, 週四 chu tứ, 週五 chu ngũ, 週六 chu lục, 週日 chu nhật
  • Phương ngữ TQ: 禮拜一 lễ bái nhất, 禮拜二 lễ bái nhị, 禮拜三 lễ bái tam, 禮拜四 lễ bái tứ, 禮拜五 lễ bái ngũ, 禮拜六 lễ bái lục, 禮拜日 lễ bái nhật hay 禮拜天 lễ bái thiên
  • Tiếng Hán (cổ): 月曜日 nguyệt diệu nhật, 火曜日 hoả diệu nhật, 水曜日 thuỷ diệu nhật, 木曜日 mộc diệu nhật, 金曜日 kim diệu nhật, 土曜日 thổ diệu nhật, 日曜日 nhật diệu nhật
  • Tiếng Nhật: 月曜日 Getsuyōbi, 火曜日 Kayōbi, 水曜日 Suiyōbi, 木曜日 Mokuyōbi, 金曜日 Kin’yōbi, 土曜日 Doyōbi, 日曜日 Nichiyōbi
  • Tiếng Hàn: 월요일 月曜日 Wolyoil, 화요일 火曜日 Hwayoil, 수요일 水曜日 Suyoil, 목요일 木曜日 Mogyoil, 금요일 金曜日 Geumyoil, 토요일 土曜日 Toyoil, 일요일 日曜日 Ilyoil
  • Tiếng Trung (CG): 瞻禮二 chiêm lễ nhị, 瞻禮三 chiêm lễ tam, 瞻禮四 chiêm lễ tứ, 瞻禮五 chiêm lễ ngũ, 瞻禮六 chiêm lễ lục, 瞻禮七 chiêm lễ thất, 主日 chúa/chủ nhật.

Cách gọi bảy ngày trong tuần (theo dương lịch, tiếng TQ1 trong bản so sánh trên) chỉ trở thành chính thức vào năm 1912 ở TQ, trước đó một tuần 旬 là mười ngày - xem phần 1. Cách gọi ngày trong tiếng Nhật có nguồn gốc cổ Hi Lạp và La Mã, nhập vào TQ rồi qua Nhật (trước thời các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo rất lâu) và Hàn quốc, có tài liệu cho rằng ít nhất là vào thời kì Heian (Bình An) 平安時代 (794-1185). Tuy cách gọi tên ngày của tiếng Hán cổ hầu như không còn ai biết đến ở TQ, cách gọi này lại được bảo lưu trong tiếng Nhật và Hàn. Đây cũng là một hiện tượng thú vị như cách gọi tên ngày theo truyền thống CG vẫn còn bảo lưu trong tiếng Việt hiện đại. Các tên hành tinh đều tương thích với tên hành tinh Tây phương đã dùng để gọi ngày như nhật diệu nhật 日曜日 (nhật the the Sun > Sunday), nguyệt diệu nhật 月曜日 (nguyệt Moon > Monday), hỏa diệu nhật 火曜日 (hỏa hỏa tinh/Mars > March, Martes, Martedì), thủy diệu nhật 水曜日 (thủy thủy tinh/Mercury > Miércoles, mercoledì), mộc diệu nhật 木曜日 (mộc mộc tinh/Jupiter > Jueves, giovedì), kim diệu nhật 金曜日 (kim kim tinh/Venus > Viernes, venerdì), thổ diệu nhật 土曜日 (thổ thổ tinh/Saturn > Saturday). Đây cũng là lý do tại sao lại có 7 ngày trong một tuần trong hệ ngôn ngữ Ấn-Âu. Điều rất thú vị là các tên ngày trong tiếng Nhật lại ăn khít với các tên hành tinh hơn cả ngôn ngữ Tây phương (có gốc là chính các tên hành tinh này), phần nào cho thấy ảnh hưởng lâu đời và ở vùng xa thì thường có khuynh hướng duy trì tính chất cổ hơn.

Phần trên là sơ lược các cách gọi ngày của một tuần trong những ngôn ngữ thường gặp, những ngôn ngữ khác cũng có nhiều tính chất đặc biệt trong quá trình hình thành tên gọi ngày của tuần nhưng không nằm trong phạm vi bài viết nhỏ này.

Tóm lại, cách gọi tên ngày giờ phản ánh quá trình giao thoa ngôn ngữ và văn hoá theo dòng thời gian. Ngôn ngữ còn bảo lưu phần nào các vết tích trên như dùng tên thánh thần, thiên thể hay số đếm trong cách gọi ngày giờ. Một hiện tượng thú vị là CG từ phương Tây, cách đây chỉ khoảng bốn thế kỉ, đã để lại dấu ấn trong tiếng Việt qua cách gọi ngày chúa nhật (chúa đức Chúa Trời), ngày thứ nhất hay ngày Dominh [7], ngày thứ hai đến thứ bảy. Ngoài ra, chúa nhật còn là vết tích ngôn ngữ của lịch sử VN trong giai đoạn một vua hai chúa (không phải là hai chủ [8]). Tương tự như PG từ Thiên Trúc đã để lại dấu ấn trong tiếng Việt, như qua cách dùng bụt và phật, cách đây hơn hai mươi thế kỉ hay trong cách gọi ngày của tiếng Nhật. Vị trí đặc biệt của nước VN, thí dụ như từ góc độ địa-chính-trị, ở Á Đông đã đóng góp không nhỏ vào hiện tượng bảo lưu văn hoá và ngôn ngữ thú vị này. Một điểm đáng nhớ ở đây là chỉ có hai ngôn ngữ trên thế giới mà tên gọi ngày bắt đầu bằng ngày thứ nhất [9] (hay chúa/chủ nhật) cho đến ngày thứ bảy, đúng như ý định của Toà Thánh La Mã thời trung cổ, đó là tiếng Bồ-Đào-Nha và tiếng Việt.

3. Tài liệu tham khảo chính

1) Gabriel Aubaret (1867) "Vocabulaire français-annamite & annamite-français & grammaire" in năm 1867, viết xong năm 1863. Sĩ quan hải quân Aubaret thông thạo chữ Nho và chữ quốc ngữ.

2) cjvlang.com (2000-2017) "Days of the Week in Chinese, Japanese, Vietnamese & Mongolian" xem các bài viết về tên gọi ngày tiếng Việt/Nhật/TQ và Tây phương trên trang mạng http://www.cjvlang.com/Dow/updatedow.html

3) Pigneau de Béhaine (1772/1773) - Bá Đa Lộc Bỉ Nhu "Dictionarium Annamitico-Latinum" Dịch và giới thiệu bởi Nguyễn Khắc Xuyên, NXB Trẻ (Thành Phố HCM - 1999).
— (1774/Quảng Đông - Địa phận Đàng Trong tái bản năm 1837) "Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ" 聖教要理國語 viết bằng chữ Nôm theo dạng Hỏi-Thưa. Y Doãn Ninh/Lê Bảo Tịnh phiên âm và chú giải, La Vang Tùng Thư xuất bản (Mỹ).

4) J. F. M. Génibrel (1898) "Dictionnaire annamite français" Imprimerie de la Mission à Tân Định (SaiGon).
— (1906) "Petit dictionnaire annamite français" Imprimerie de la Mission à Tân Định (SaiGon).

5) Nguyễn Hồng (1959) "Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam - Quyển 1 - Các Thừa Sai dòng Tên 1615 - 1665" NXB Hiện Tại (Sài Gòn).

6) Nguyễn Quang Hồng (2015) "Tự điển chữ Nôm dẫn giải" Tập 1 và 2 - NXB Khoa Học Xã Hội/Hội Bảo Tồn Di Sản Chữ Nôm (Hà Nội).

7) Giêrônimô Maiorica (thế kỷ XVII) "Mùa Ăn Chay Cả", "Thiên Chúa Thánh Mẫu - Quyển thượng", "Thiên Chúa Thánh Mẫu - Quyển trung", "Đức Chúa Giê-Su - Quyển chi cửu & Quyển chi thập", "Thiên Chúa Thánh Giáo Hối Tội Kinh" (TCTGHTK), “Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông” (TCTGKM), "Kinh Những Ngày Lễ Phục Sinh - Quyển thứ ba", “Các Thánh Truyện”. Sách lưu hành nội bộ (năm xuất bản 2002/2003 - LM Nguyễn Hưng).

8) Alexandre de Rhodes (1651) "Phép Giảng Tám Ngày" - Tủ Sách Đại Kết in lại từ Tinh Việt Văn Đoàn (1961 - Sài Gòn) với phần giới thiệu của tác giả Nguyễn Khắc Xuyên.
— (1651) “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum” thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La; bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính - NXB Khoa Học Xã Hội, Thành Phố HCM (1991).
— “Tường Trình về Đàng Trong 1645” bản dịch của Hồng Nhuệ, NXB Ánh Sáng Publishing, Escondido (California/Mỹ, 1994?).
— "Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài từ 1627 tới năm 1646" dịch giả Nguyễn Khắc Xuyên - Tủ sách Đại Kết, Thành phố HCM (1994).

9) Jean Louis Taberd (1838) - tên Việt là cố Từ - "Dictionarium Annamitico-Latinum" Serampore (Bengale).


Xem online : Tiếng Việt thời Alexandre de Rhodes (phần 6a)


[1Tuần lễ tiếng Tây-Ban-Nha là semana, có gốc La Tinh septimana (thứ bảy, septem/L là số bảy) so với tuần tiếng Pháp là semaine, tiếng Ý settimana, tiếng Bồ-Đào-Nha semana... Cho thấy khái niệm về tuần có 7 ngày đã có lâu đời ở Âu châu.

[2Tiếng La Tinh feria có các nghĩa (a) ngày hội/liên hoan (festival/A) (b) ngày lễ/nghỉ (holiday/A) (c) một cuộc họp chợ, hội chợ (fair/A) (d) theo truyền thống CG là ngày trong tuần (weekday/A). Sự chuyển nghĩa từ ngày nghỉ (thường chỉ ngày cuối tuần) trở thành ngày trong tuần là vì vào thời trung cổ các thánh lễ thường cũng được làm vào ngày trong tuần (so với lễ cuối tuần), đặc biệt là vào Tuần Thánh (Holy Week). Trong những khu vực nói tiếng Bnh, feria còn có nghĩa là ngày hội để tưởng nhớ đến các vị thánh CG. Trong khẩu ngữ, feria thường bị bỏ qua (hiểu ngầm) khi nói tên ngày cũng như tiếng Việt "Thứ ba này tôi về".

[3Tiếng Nga (và một số ngôn ngữ Slavic) cũng dùng số đếm để gọi tên một số ngày, nhưng bắt đầu là ngày thứ hai thành ra вторник vtornik (второй nghĩa là thứ nhì, cho nên вторник là ngày thứ ba), четверг chetverg (четвертый nghĩa là thứ tư, cho nên четверг là ngày thứ năm), пятница pyatnitsa (пять là số năm, cho nên пятница là ngày thứ sáu), суббота subbota là ngày thứ bảy (< Sabbath). Một số ngôn ngữ Nam Đảo (Austronesian) khi du nhập CG cũng có hệ thống gọi ngày như tiếng Nga - không nên nhầm lẫn với trường hợp tiếng Việt (dùng chủ nhật là ngày thứ nhất).

[4Điều này cho thấy văn hoá TH rất khó ‘thay đổi’ vì quán tính của văn học ngôn ngữ thời Hán/Đường, nhất là từ tôn giáo như CG Tây phương, khác với trường hợp VN (đặc biệt là sau thời Pháp thuộc).

[5Lễ bái từng có nghĩa là tuần (bảy ngày, khái niệm từ phương Tây), như được ghi trong cuốn 廣東省土話字彙 Quảng Đông Tỉnh Thổ Thoại Tự Vị (1828). Cách dùng này có lẽ bắt đầu từ thời kì giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo CG phải bắt đầu từ miền nam TQ (Quảng Đông, Phúc Kiến ...), do đó mang tính chất địa phương so với hệ thống gọi ngày được chấp thuận từ trung ương (Bắc Kinh). Điều này giải thích phần nào tại sao công thức gọi ngày 禮拜[X] lại phổ thông ở Đài Loan và miền nam TQ.

[6Cách gọi tên ngày dùng chu 週 có thể là từ Nhật Bản nhập vào tiếng TQ vào đầu thế kỉ XX (chu là chữ gốc Hán nhập ngược vào TH Nhật-Chế-Hán-Ngữ 日製漢語 hay Ngoại-Lai-Ngữ 外來語). Phương pháp gọi tên này đơn giản và càng ngày càng được dân chúng thành thị chuộng hơn so với các cách gọi tên ngày khác ở TQ.

[7Ngay cả tiếng Inđônêsia/Java/Sundanese, cách gọi ngày cũng giống tiếng Mã-Lai, nhưng ngày chủ nhật còn gọi là Minggu - đây là dạng domingo từ tiếng Bồ-Đào-Nha. Tiếng Tagalog (ở Phi-Luật-Tân) gọi chủ nhật là linggo (< Tây-Ban-Nha domingo).

[8Cách dùng Thiên Chủ, Thiên Chúa 天主 đã có từ thời VBL, dựa vào các công trình trước đó từ các LM dòng Tên đã đến TQ truyền đạo như Michele Ruggieri, Matteo Ricci... VBL ghi thêm là Thiên Chúa là cách dùng tốt hơn, cho đến nay không ai nói đạo Thiên Chủ. Từ thời LM de Rhodes cho đến các LM thời Béhaine (1772/1773), Taberd (1838) chữ quốc ngữ đều dùng chúa nhà, chúa tàu so với cách dùng chủ nhà, chủ tàu như tiếng Việt hiện đại. LM Béhaine còn ghi thêm "gia chủ" 家主 (pater familias/L) cho thấy thời Béhaine và trước đó thường dùng chủ HV với các từ HV khác - gia chủ chúa nhà - không như cách dùng chủ nhà như bây giờ. Ngay cả trong "Sách Sổ Sang chép các việc" (1822), LM Philiphê Bỉnh chỉ dùng chúa nhà, chúa tàu. Đây là một khuyết điểm của chữ Nôm: 主 có thể đọc là chủ hay chúa!

[9Đạo (trường phái) The Quakers, độc lập với Toà Thánh La Mã, cũng có hệ thống gọi tên ngày tháng theo số thứ tự: chủ nhật là ngày thứ nhất cho đến thứ bảy, tháng một (January/A) cho đến tháng 12 (December/A). Bổn đạo The Quakers tin là mỗi ngày đều là ngày lễ và nhớ đến ĐCGS, không cần phải dành riêng cho chủ nhật - xem thêm chi tiết trang này chẳng hạn https://spiritualray.com/quakers-religious-society-of-friends. Tuy nhiên, ta cần biết là Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế ISO - theo tiêu chuẩn ISO 8601 - định kỳ 7 ngày trong niên lịch (tuần) bắt đầu bằng thứ hai chứ không phải là chủ nhật.