Trang nhà > Tư duy > Cổ điển > Nguyễn Khuyến (1835-1909)
Nguyễn Khuyến (1835-1909)
Thứ Tư 24, Tháng Giêng 2007
Tên thực Nguyễn Tất Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi, quê làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Vốn thuộc dòng dõi Tiến sĩ Nguyễn Tông Mại đời Hậu Lê, Nguyễn Khuyến lận đận gần 30 năm trời đèn sách và 9 lần vác lều chõng. Nhưng với 3 lần thi Hương, thi Hội, thi Đình đều đỗ đầu, người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ.Đầu tiên, ông được bổ làm Sử quan trong triều; năm 1873, ra làm Đốc học Thanh Hóa, rồi thăng nhanh lên Án sát tỉnh. Năm 1874, ông phải mang quân chặn quân khởi nghĩa (mà sử cũ gọi là lệ phỉ) phạm vào tỉnh Thanh ở vùng Tĩnh Gia, Nông Cống. Đúng lúc ấy bà mẹ ông mất. Ông phải nghỉ ba năm về quê cư tang mẹ. Hết tang, ông vào triều giữ chân Biện lý bộ Hộ. Năm 1877 lại ra làm quan ngoài, giữ chức Bố chính Quảng Ngãi. Rồi làm Toản tu ở Sử quán, từ 1879 đến 1883, vẫn sống trong cảch thanh bần, lại thêm đau yếu, ông đã có tâm trạng chán ngán cảnh quan trường.Năm 1883, quân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai. Rồi Tự Đức chết (19-7-1883), triều Nguyễn phải ký hiệp ước Harmand ngày 25 tháng 8 năm 1883. Nguyễn Khuyến đã được cử làm Phó sứ sang Mãn Thanh. Ông đã ra Bắc, nhưng chuyến đi sứ ấy bị bãi. Ông lấy cớ đau yếu, xin tạm về quê dưỡng bệnh, thì trung tuần tháng 12 năm 1883, triều Nguyễn cử ông làm tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, song ông không chịu đến nhận chức, mà chính thức cáo quan về nghỉ hưu khi mới 50 tuổi. Một phần tư thế kỷ về ở Yên Đổ này có ý nghĩa quyết định để nhà thơ trở thành bất tử, khi ông tiếp tục sáng tác nhiều và hay hơn nhiều so với thời gian trước đó. Ngoài ra vào mấy năm đầu thế kỷ XX, Tổng đốc Hoàng Cao Khải có mời Nguyễn Khuyến lên Hà Nội dạy học ở nhà mình (Nguyễn Khuyến nhân đó đã viết bài thơ vịnh Phỗng đá).Ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5-2-1909 (tức 15 tháng Giêng năm Kỷ Dậu), thọ 75 tuổi. Tác phẩm để lại: Quế Sơn thi tập; Yên Đổ Tam nguyên quốc âm thi tập.Xin giới thiệu bài thơ chữ Hán Hoàn Kiếm hồ của Nguyễn Khuyến. Hà Nội vào đầu thế kỷ XX được người Pháp mở mang xây dựng với phố, nhà theo kiểu kiến trúc châu Âu. Nhiều phố, phường cổ bị phá bỏ. Toàn bộ đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa... của Hà Nội cổ truyền đang chuyển sang một mô hình hoàn toàn mới lạ. Cụ Tam nguyên Yên Đổ sau 30 năm trở lại Hà Nội đã chứng kiến những đổi thay đó và bài thơ đã phản ánh sâu sắc tâm trạng Nguyễn Khuyến. Bất đáo Kiếm Hồ tam thập niên,
Đương thời cảnh sắc dĩ mang nhiên.
Hành mao hà xứ khởi lâu các,
Già bác đản thanh vô quản huyền.
Huyền điểu quy lai mê cựu kính,
Bạch âu mộ hạ túc hàn yên.
Khả lân ngũ bách văn chương địa,
Thượng hữu cô sơn thạch nhất quyền.Dịch nghĩa:Hồ Hoàn KiếmBa mươi năm rồi không đến thăm Hồ Gươm,
Cảnh sắc thời xưa đã không còn thấy gì cả.
Cổng tranh mái lá đâu rồi, chỉ có lầu gác mọc lên,
Không còn tiếng đàn sáo du dương, chỉ nghe những âm thanh kèn, súng lộn xộn.
Chim én bay về quên mất lối xưa,
Chiều xuống, cò đậu giữa sương khói lạnh.
Đáng thương cho đất văn chương đã năm trăm năm [1]
Nay chỉ còn trơ trọi một mỏm núi đá bên hồ [2].Sau đây xin dẫn 3 bài thơ Nôm về mùa thu của Nguyễn Khuyến:
Thu điếu
(Mùa thu câu cá)Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Thu ẩm
(Mùa thu uống rượu)Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè
Thu vịnh
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Mấy chùm trước giậu, hoa năm ngoái
Một tiếng trên không, ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào [3]
[1] Năm trăm năm là tính từ khi vương triều Lê được kiến lập năm 1428.
[3] Đào Tiềm: Một nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng, từ quan về ở ẩn, làm bạn với hoa cúc