Trang nhà > Lịch sử > Hiện đại > PHẦN 2 – VIỆT NAM ĐI TRƯỚC VỀ SAU
NGƯỜI VIỆT TRẦM LẶNG
PHẦN 2 – VIỆT NAM ĐI TRƯỚC VỀ SAU
The quiet Vietnamese
Thứ Bảy 8, Tháng Chín 2018, bởi
(Trích trong tác phẩm nhiều tập "Đông Âu anh hùng truyện" của tác giả Nam Nguyen)
Thực tập ở EDF
Sang Pháp anh phải học thêm 2 tháng ở Vichy về tiếng, đáng nhẽ sẽ có 9 tháng thực tập ở INRIA (một Viện nổi tiếng thế giới ở 2 lĩnh vực nghiên cứu tin học và tự động hóa), nhưng đúng lúc INRIA thắng thầu thiết kế ngôn ngữ ADA cho Bộ Quốc phòng Mỹ mà anh là người nước XHCN nên không được đến đó nữa. May sao, ông “thầy” lại xoay sở được cách gửi anh sang trung tâm nghiên cứu của một công ty giàu mạnh loại nhất nước Pháp là EDF (Điện lực Pháp). Tại đó lại đang triển khai việc tìm giải pháp thay cho hệ thống cũ giám sát mạng điện 20 kV ở Paris – bằng kỹ thuật vi xử lý, một điều rất mới kể cả đối với người Pháp đương thời. Anh được nhận vào team gồm hơn chục người, trong đó anh “lìu tìu” nhất, ngoại ngữ còn bập bẹ, lại chỉ có chức danh kỹ sư điện. Anh tưởng chỉ được làm chân loong toong, không ngờ team leader giao anh thiết kế hệ phát triển cho bộ vi xử lý Intel 8085 mới ra lò.
Hai tháng sau anh hoàn thành xuất sắc prototype và với cách dùng người rất hay, không hề câu nệ, công ty Pháp này đưa anh lên phụ trách hướng dẫn sử dụng hệ này và cho hưởng nhiều đặc quyền. Phía Pháp đãi ngộ với anh khá tốt, mà cái quyền to nhất theo anh là “được thoải mái photocopy tài liệu” – ngay những kỹ sư già dưới quyền anh hồi đó muốn chụp in gì cũng bị hạn chế về số trang. Sau anh cùng anh Vũ Duy Mẫn sang Viện Hàn lâm KH CHDC Đức mới thấy hồi đó máy sao chụp và in quý giá như thế nào ! “Hệ phát triển” do anh làm prototype đã được chế tạo như một thiết bị công nghiệp với các mạch in hai lớp, cắm vào các ổ connector mạ vàng, như vậy có thể dễ dàng nhân bản và lắp ráp thành loạt máy tính thứ hai của VN, ký hiệu VT81 ! Anh Diệu đồng ý để anh bàn với ông thầy giới thiệu hầu hết anh chị em trong phòng Kỹ thuật Vi xử lý của Viện lần lượt sang Pháp và thực tập ở phòng thí nghiệm của công ty EDF với những điều kiện làm việc tốt nhất ! Mãi sau này họ mới biết anh chưa có chức sắc bất kỳ gì ở VN cả !?
Trận địa pháo cao xa và những luống hoa quanh Đồi Thông 1979
Trở về thời chiến
Tháng 2/1979 TQ gây chiến, anh về Hà Nội, mang theo rất nhiều mạch in và tài liệu copy được cùng với số linh kiện (phần lớn mua bằng tiền tiết kiệm) đủ chế tạo ra vài máy tính. Tại Việt Nam, anh trở thành một cán bộ nhỏ giữa vòng xoáy điều hành và cạnh tranh của các thủ trưởng như Phan Đình Diệu, Nguyễn Văn Hiệu, Vũ Đình Cự, v.v.. Triển vọng ứng dụng tin học bằng các máy vi tính có được đề cập đến các TSKH này nhưng ở cấp cao hơn nữa là ông Trần Đại Nghĩa thì chả được thấu hiểu hoặc quan tâm đúng mức. Anh từng được lên báo cáo với ông Nghĩa nhưng suốt buổi anh thấy ông tỏ vẻ không muốn ủng hộ phát triển một ngành mà theo anh sẽ “thay đổi cả thế giới”. Mãi sau này anh mới loáng thoáng hiểu được lãnh đạo của mình: lúc đó ông Nghĩa đã biết rằng mình sắp phải bàn giao công việc lại cho anh Hiệu, thế nên việc không quan tâm đến “vi tin học” có thể là cách để ông giữ lại những tiềm năng của ngành này cho các năm sau, chứ ở ta hay có lối “tân quan tân chính sách”. Thật đáng tiếc vì nếu định hướng làm phần gia công với rất nhiều lao động rẻ tiền mà khéo tay Việt Nam từ hồi đó đã có thể đi đầu Đông Nam Á trong sản xuất máy tính cá nhân sớm hơn được vài năm trước khi mấy nước xung quanh hiểu ra... Có lẽ số phận chuẩn bị dành cho anh C những thử thách khác nữa ở phía trước mà anh cũng không thể ngờ!
Phải kể lại rằng từ 12/1976 có sự việc sáp nhập hai bên ông Diệu (Phòng máy tính) và ông Loan (Ban điều khiển học) để thành lập Viện KH tính toán và Điều khiển với trụ sở “Đồi Thông” ở Liễu Giai (vẫn để lại máy Minsk-22 ở UB KH&KT NN tại 39 Trần Hưng Đạo) – như một trong số các Viện “con” thuộc về Viện KHVN do ông Trần Đại Nghĩa lãnh đạo. Bộ phận của anh C được gọi là “Phòng kỹ thuật tính toán” từ năm 1977, anh vẫn làm kỹ sư. Mọi nhân viên vẫn sinh hoạt cùng nhau mặc dù Viện ở đôi nơi... Sau khi VT80 ra đời thì ông Giáp rất quan tâm, khoảng cuối năm 1979 cả thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đến thăm (tự nhiên mọi người thấy cảnh vệ tới rà soát cơ quan từ mấy hôm trước). Ông Đồng rất khen thành tựu của anh em và anh C, thậm chí còn hứa xây cho một tòa nhà mới thay cho ba gian nhà cấp 4 xập xệ ở Đồi Thông...
Từ khi có loạt máy tính thứ hai VT81, Việt Nam mới chính thức có ngành “vi tin học” (microinformatics) – mặc dù Mỹ và các đồng minh đang cấm vận ngặt nghèo, một vài cơ quan khác nhau đã có sự tiếp xúc khá kín với phương Tây, ví dụ Viện Tin học mới có chương trình vừa gửi thực tập sinh sang Pháp vừa mua linh kiện về chế tạo máy vi tính. Quân đội có ít nhất 2 cơ quan đã cử người cùng dự các seminar ở Viện Tin học: bên TTTT của anh Lãm (chủ yếu vẫn tin vào tiềm năng của các máy lớn nên theo hướng CCCP...) và bên anh Quang A ở Viện KTQS (tuy chưa làm được máy tính nhưng đã có chuyên gia Hoàng Thành Đào giúp làm các ứng dụng nhỏ về điều khiển). Anh C về nước cũng có làm mấy đợt seminar từ Bắc chí Nam ngay trong năm 1979. Phòng anh C cũng làm cho nhóm anh Lê Anh Dũng một hệ phát triển dự định để làm máy tính cho bên quân đội.
Năm 1979 ông Chủ tịch Henri cùng 2 vị nữa sang thăm VN sau khi Trung Quốc đánh phía bắc – các bạn Pháp đòi anh C dẫn đi tham quan Lạng Sơn, tận mắt thấy bị san phẳng theo đúng nghĩa đen. Họ ngỡ ngàng, không ngờ quân Trung Quốc dã man thế. Đấy là anh C được "trên" khuyến cáo chỉ đưa các bạn ngoại quốc đi vào thị xã, không tạt ngang ngửa đâu cả, thảm cảnh có thể còn rùng rợn hơn!
Ứng dụng quân sự
Khi chiến tranh biên giới nổ ra tháng 2/1979 (thực ra xung đột đã có trước đó) phần lớn các phương tiện liên lạc của cơ yếu bên ta đều dựa vào một loại máy giống máy teletype của Mỹ nhưng do Cơ yếu Trung Quốc cung cấp, anh em Cơ yếu VN cũng làm việc na ná theo kiểu được Trung Quốc hướng dẫn, có lẽ từ thời chiến dịch Điện Biên Phủ. Mà TQ hình như lại nhái mẫu mã của Mỹ, Nhật hay sao mà dùng điện 110 Volt. Vì máy móc và phương pháp mã hóa/giải mã đều của TQ cung cấp nên nếu đối phương có bắt được tín hiệu, nghe trộm được những câu trao đổi giữa máy do các đơn vị tác chiến vác theo và các máy ở sở chỉ huy thì cũng là chuyện dễ hiểu, và với các câu khẩu lệnh kiểu “Chim Ưng gọi, Đại Bàng trả lời!” thì chắc là nội dung sẽ bị đoán đọc ra chả mấy khó khăn.
Nhu cầu cải tiến thiết bị của Cục Cơ yếu quân đội trở nên bức thiết, nhưng chẳng lẽ lại “nhường” việc cho bên ngoài? Hồi đó cơ yếu (CY) được coi là ngành cực kỳ quan trọng, làm trưởng Ban CY chính phủ phải cỡ Phó Thủ tướng hay bộ trưởng. Một thiếu tướng tên Thái làm phó Ban CY đã móc nối với anh Diệu. Nhưng khi gặp người bàn việc cụ thể, họ thấy một tay trẻ măng (anh C có khuôn mặt bao giờ cũng trẻ hơn tuổi thật rất nhiều!), quần loe tóc dài, lại chưa phải bộ đội, đảng viên – thế là có ý kiến trên dưới phản đối. Đúng là đã có thiết bị hiện vật đâu mà họ tin? Cuối cùng thủ trưởng Diệu bảo anh phải tự đi thuyết phục vị phụ trách thường trực của Cơ yếu Chính phủ!
Anh đến tận nhà riêng của trung tướng Trần Quý Hai ở phố Đặng Tất để giải thích sẽ làm thế này, thế kia... lúc đầu ông Hai lặng im mãi, nét mặt không biểu lộ gì. Rồi thật bất ngờ, ông bảo: “Thôi cậu trình bày bằng tiếng Pháp tôi nghe xem nào!”. Hóa ra ông cũng là dân Pháp học, chứ nghe tiếng Việt thuật ngữ ta tự nghĩ ra giải thích khó thông lắm! Thế là chỉ sau 15 phút vị trung tướng đang ốm vì bị tiểu đường đã hiểu rõ phương hướng cải tiến và tuần lễ tiếp theo CY CP ra quyết định cho làm luôn ! Ngoài anh Diệu, chỉ có 3 anh đã từng tham gia làm máy tính VT80 được chọn để tham gia vụ này. Bên CY tham gia đông hơn, họ giao cho nhóm anh C một máy teletype sơn đen sì, “xóa dấu vết” để chẳng đọc được chữ nghĩa nào cả.
Hồi đó máy Nga cực ít (sau thời xét lại ta hầu như không cử sang Liên Xô đào tạo ngành này nữa) nên chủ yếu dùng máy Trung Quốc. May mà máy Tàu chạy bằng điện xoay chiều 110 V, khi chỉnh dòng thì điện áp một chiều lên cao khoảng 150 Volt. Tuy không có linh kiện Mỹ nhưng dùng của Nga cũng bền phết. Riêng bộ phận xử lý phải dùng nguồn điện một chiều 5 Volt, và quấn dây để thay mạch in (wrapping). Anh C trình bày các ý tưởng và làm phần mềm, còn thực hiện phần cứng có 2 đồng sự kết hợp với anh em cơ yếu vừa làm vừa học, cuối cùng rồi cũng chạy được hết. Các vi mạch của Mỹ đem từ Pháp về ghép nối chắp vá với các linh kiện điện tử của Liên Xô, loại khỏe nhất chịu được đến khoảng 180 V...
Khó nhất là phải viết ra phần mềm thật cô đọng vì bộ nhớ rất hiếm, có dưới chục kB mà thôi và CPU chỉ xử lý được 8 bit dữ liệu! Có lẽ với những điều kiện hạn chế như vậy thì viết phần mềm quả thật cực khó đối với cả lập trình viên quốc tế lúc đó (à mà các bạn trẻ bây giờ cũng có thể thử tài lại một lần nữa – báo trước là “xương xẩu” lắm đấy!). Ý tưởng nảy ra trong một giấc mơ, anh C choàng dậy và làm ngay không sợ lại quên – và thế là chiếc teletype của CY VN được gắn thêm một máy vi tinh chuyên dụng nhỏ xíu để có thể gửi và nhận những dòng văn bản được mã hóa, và in được ra giấy luôn ! Giải pháp ngoạn mục...
Sau khi làm xong vụ này thì CY lại “mật hóa” như trước, tức là bên anh C bàn giao sơ đồ, chương trình và máy mẫu, bên CY mang đi và nhân bản ra để dùng, các bộ phận được cải tiến thế nào chả ai biết rõ các tác giả cũ, mới. Ý nghĩa của nó đối với thực địa tác chiến có lẽ chỉ bên quân đội đánh giá được mà thôi. Thậm chí nó có thể biến mất vì rất lâu sau này có một đề tài tương tự được giao cho một đơn vị của bên Bộ tư lệnh thông tin thực hiện, và tình cờ lại có người tìm anh C hỏi kỹ cách làm xưa kia... (nhưng tác giả tự xưng thì nhiều lắm, tất nhiên phải là sỹ quan quân đội rồi! Thành tích lớn lắm đấy!). Đấy là cơ duyên đầu tiên của anh C với ngành cơ yếu, nhưng không phải cuối cùng...
Một thời ngây ngô
Anh C còn trẻ, làm việc với đối tác nước ngoài nhiều và từng bị người phụ trách công tác tổ chức nhân sự hồi đó can thiệp cả vào việc chọn vợ. Vốn tính anh vui vẻ, quen biết rộng, thích chuyện văn học nghệ thuật nên lắm bạn. Sau này anh mới biết mình là một trong các “ngôi sao đang lên” thời đó, được cả mấy cô con em lãnh đạo để mắt tới. Có hai cô lần lượt được anh ưng nhưng khi báo cáo lên lại bị tổ chức “lắc đầu”. Mãi đến năm 1982 anh được giới thiệu làm quen con gái một ông bên tòa án, các em lại đang học trường công an, thế là năm sau thì được đồng ý cho cưới ! May là dù đã già nhưng cuối cùng vẫn lấy được vợ.
Từ 1979 Viện phó Viện KHVN Vũ Đình Cự đã có ý và từng mời anh hợp tác, hồi đó anh C còn “non” đến mức vô tư nhận giúp, chả nghĩ rằng sếp trực tiếp của mình là anh Diệu sẽ phật ý. Anh Cự thân ít người nhưng có quen chị Cầm cùng ở ĐH Bách Khoa, sau là phu nhân của ông Võ Văn Kiệt. Cuối thời chống Mỹ, anh Cự đã phụ trách khoa học cho một dự án phá bom từ trường. Chị Cầm vào giữa thập niên 1980 hình như có hỏi anh Cự về một phương án kỹ thuật để bảo vệ đảo ngoài biển Đông. Anh C không tham gia nhưng có tư vấn cho anh Cự. Phương án anh Cự muốn là tôn cao và mở rộng bãi đá, anh C lại nghĩ là không hợp lý (vì đắp đảo sẽ vô cùng tốn kém và lộ liễu dễ va chạm với Trung Quốc) mà nên có phương án chống tấn công bằng các vũ khí có thể điều khiển từ xa, nhưng sau không được anh Cự hỏi tiếp…
Anh Cự quê Thái Bình, hồi đó ta đang thăm dò dầu khí ở vịnh Bắc Bộ và vùng ven bờ, có dùng các thiết bị của Liên Xô và Pháp – anh C được biết thêm một số thứ liên quan đến công việc thăm dò ở các cửa biển Hải Phòng và Thái Bình, ví dụ như kỹ thuật địa chấn và sonar v.v.. Phụ trách chính là ông Đinh Đức Thiện, nếu nhớ không nhầm thì chủ tịch tỉnh Thái Bình là ông Nguyễn Ngọc Trìu. Anh C lúc đầu chỉ giảng dạy về vi xử lý và tham gia tìm hiểu các thiết bị của Thomson có bộ vi xử lý được bọc kín để làm việc dưới nước. Sau này ở vùng Hải Phòng không thấy khả quan, Thái Bình thì trên cạn có ít khí (chỉ đủ năng lượng cho những xí nghiệp nhỏ) và dầu thô cũng ít hy vọng, nên trọng tâm thăm dò chuyển hẳn vào biển miền Nam…
Hồi đó anh C và anh Nguyễn Mạnh Sắt (một TS kỹ thuật bên anh Hiệu) có làm giúp bên anh Cự, thường vào ngày chủ nhật. Một trong những vấn đề nảy sinh là khi các chuyên gia Liên Xô đưa thiết bị khoan sâu xuống đất gặp nhiệt độ rất cao (gần 200 độ) thì nhiều tham số không đo chính xác được, có chuyên gia phẫn chí đến mức tự tử… Anh C đưa ra các ý tưởng: hoặc thay bằng các linh kiện chịu nhiệt tốt hơn và làm mát phần điện tử hoặc đưa tín hiệu lên mặt đất và dùng máy tính xử lý. Sau đó nghe nói nhóm anh Đàm Trung Đồn bên Đại học Tổng hợp tiếp tục triển khai, còn anh C về suýt bị kỷ luật vì đi làm ngoài (không lương) cơ quan chủ quản mà không báo cáo xin phép trước! Anh Diệu cũng phê bình và có đôi chút nghi ngờ… Rồi những năm sau anh không được đi Mỹ (2 lần) cũng như ko được sang Pháp làm tiến sỹ. Đến 1990 anh mới được bảo vệ TS trong nước, mặc dù anh thấy học hàm, học vị chả cần thiết.
Trở lại loạt máy vi tính đầu tiên, xin lưu ý rằng trong ký hiệu VT80 thì số “80” liên quan đến chip Intel 8080A chứ không phải năm 1980! Tiếp theo VT81 có thể coi như máy vi tính hoàn toàn VN: năm 1978 anh C thiết kế các bộ phận CPU và bộ nhớ với phần mềm lõi viết cho chip Intel 8085, năm 1979 anh Thái làm bộ phận điều khiển ổ đĩa mềm và giao diện màn hình cùng anh Đức cài đặt hệ điều hành CP/M80. CP/M80 là hệ điều hành tốt nhất hồi đó của Mỹ, cuối thập nhiên 1970 nó rất nổi tiếng và gần như là duy nhất dùng được cho các ứng dụng doanh nghiệp (không phải cho các máy tính gia đình)! Tác giả của nó là Gary Kildall – một tay gốc người Thụy Điển nhưng rất ham chơi – và có lẽ đó là một bệnh “truyền thống” làm nhiều ngôi sao trong làng tin học sớm “đứt gánh giữa đường”. Gary đã lỡ dịp khi ông lớn IBM định mua trọn CP/M và đàn em Bill Gates chớp cơ hội ngàn năm có một này để sau vượt mặt IBM, trở thành công ty phần mềm đứng đầu thế giới.
Đợt tổng động viên năm 1979 xảy ra khi anh C từ Pháp về được phụ trách làm loạt máy VT81 rồi năm sau làm loạt máy VT82. Một số anh em trẻ tham gia đề tài đã được anh C đề đạt với Viện giữ lại, miễn đi bộ đội… Về nhóm lập trình trẻ với TS Vũ Duy Mẫn năm 1981 làm ra trên VT82 một hệ phát triển ứng dụng gọi là “Basic Đồi Thông”, anh C có lần kể với đạo diễn Đỗ Minh Tuấn: “Cái máy tính trước mặt khi chưa có hệ điều hành giống như một hình nhân chưa có linh hồn, chúng tôi phải viết bằng được phần mềm để thổi sức sống vào trong nó. Lúc đó chưa có PC, cũng chẳng có mấy thông tin từ nước ngoài, nghe đài BBC còn phải nhìn quanh vặn khẽ. Vì thế phải tự mày mò viết hệ điều hành riêng. Nhưng tự biết là còn dốt nên bọn tôi không dám đề là hệ điều hành, chỉ dám đề là hệ thống phần mềm Basic Đồi Thông rồi sử dung ngôn ngữ lập trình này viết phần mềm ĐT82 phục vụ quản lý vật tư cho các xí nghiệp”.
Bây giờ nhìn lại lịch sử, thử nghĩ IBM vì sao bị vượt mặt: Cho đến cuối thập niên 1970 IBM thống trị giới tin học bằng các máy tính lớn và phần mềm doanh nghiệp khép kín chứ không dành cho dân thường, thế nên những “tay mơ” kiểu Bill Gates, Steve Jobs không thích dùng mà có lựa chọn khác! “Vi tin học” là ngành phát triển cực nhanh bởi vì do những người chuyên nghiệp làm ra cho các dân không chuyên kể cả thiếu niên... cũng có thể dùng được ngay và tạo ra hàng triệu ứng dụng trên các máy tính rẻ tiền. Khẩu hiệu là MỞ và phải áp dụng NGAY! Rất cần để cho lớp trẻ VN hiểu ra – và hiểu lời hiệu triệu của bộ trưởng mới lên Nguyễn Mạnh Hùng, thực ra anh C đã giảng từ lâu về chuyện này và nhân vật ấy sẽ xuất hiện ở phần sau câu chuyện: không phải cần “làm ngược” như anh Hùng nói (nên bị rất nhiều người hiểu lầm) - mà phải chọn làm những cái người ta không làm, và không giấu diếm gì cả, chỉ cần nhanh hơn kẻ đuổi theo!
Cuối 1981 có chuyện các lão làng toán-tin họp Hội đồng ngành ở HN để chuẩn bị phong GS-PGS, anh Diệu (và ông Nguyễn Xuân Lộc – Việt kiều Tây Đức lúc đó mới về Viện phụ trách Phòng Thống kê) đề nghị cho anh C vào danh sách phó giáo sư, mà không hề hỏi ý kiến anh C lúc đó đang lăn lộn ở HCM – nơi số phận định cho anh gặp ông Kiệt, ông Linh, ông Mai Chí Thọ; một câu chuyện sau sẽ kể. Một số anh em cứ nghĩ là anh “chạy chọt” giỏi, thiếu chút là thành PGS trẻ nhất, thế rồi bắt đầu rạn nứt nhiều quan hệ… anh C bắt đầu “dỗi” thủ trưởng Diệu !
Những hướng đi khác nhau
Những năm cuối 70, đầu 80 đầy vất vả của thời bao cấp, VN đã có một số đầu tư lớn liên quan đến điện tử - tin học. Đầu tiên có một dự án “hứa hẹn tiềm năng” là sản xuất transistor, do mấy anh em khởi xướng sau khi được học vật lý kỹ thuật ở Đức, Nga, Tiệp và một bác “Việt kiều yêu nước” ở Pháp biết rằng Thomson đang muốn thải dây chuyền làm các loại transistor hạng thường ra, nên muốn môi giới mua để mang về Việt Nam... Anh C tình cờ biết chuyện qua một anh trong số khởi xướng và qua ông Henrì (vì bác kia sống ngay gần nhà ông ấy). Anh tỏ ý phản đối, nói rằng những transistor này lạc hậu, từ những năm cuối 60 Tiệp Khắc đã làm được rồi. Nhưng thấp cổ bé họng chả ai nghe. Dây chuyền này vẫn được đặt ở Nghĩa Đô trong nhà máy Z181 của Quân đội và có thêm vài người bên Viện vật lý sang. Nhưng sau đó không nghe thấy họ có thành tích gì, chỉ có tiền thì trả rồi. Nhiệt tình thiếu hiểu biết dẫn đến thất bại vì không lo được đầu ra, thị trường không có vì phần lớn các thiết bị điện tử đã dùng vi mạch thay cho transistor rời rạc.
Khoảng năm 1980 viện Vật lý bên anh Hiệu đã bắt đầu nhập máy tính theo kiểu “xách tay”. Hồi đó máy tính gia đình thì không bị Mỹ cấm vận – GS E. Cooperman chủ tịch UB Mỹ hợp tác KH với VN có mang dần dần một số máy Apple 2E sang Hà Nội. Năm 1984, ông bị ám sát bởi một sinh viên “boat people” người Việt, nguồn cấp cũng chết yểu. Apple 2E thực ra đã áp dụng mô hình mở về thiết kế, có thể gắn thêm cards và có rất nhiều ứng dụng được viết ra. Máy này khó ứng dụng cho quản lý doanh nghiệp được vì tính năng CPU 6502 khá hạn chế, tuy nhiên anh Phạm Hồng Dương (TS vật lý) đã lấy nó hỗ trợ thiết bị “cân vàng” đầu tiên ở Hà Nội. Nhiều người cứ nghĩ là máy tính đo được tuổi vàng! Anh Dương thành công lớn vì thời đó tiền đang mất giá nhanh, nhân dân sợ hay tích trữ và mua bán bằng đơn vị “chỉ vàng” là phổ biến... Năm 1985 đang là người “có của ăn của để” thì đúng dịp đổi tiền hạn mức anh C đang bị sốt xuất huyết nằm liệt giường, ốm không đi được, coi như mất gần hết. May mà vẫn còn đang rất trẻ, khỏi ốm lại nhiệt huyết đi “cày”...
Sau khi cùng Vũ Duy Mẫn tham quan nhiều trường, viện và doanh nghiệp Pháp vào năm 1986, anh C trở về đề nghị lãnh đạo viện cho đi theo hướng nghiên cứu ngôn ngữ PostScript và ứng dụng máy vi tính 32 bit dòng Macintosh. Anh được phụ trách nhóm Hệ thống gồm nhiều anh em của Phòng Kỹ thuật Vi xử lý và Phòng Lập trình nhưng không còn sự ủng hộ mạnh như cũ, hợp tác với Pháp cũng ít kinh phí hơn và nhiều người đi sang Pháp chỉ để làm tiến sỹ. Lại xảy ra vụ anh Diệu thôi chức viện trưởng ở Đồi Thông và sang Hung khá lâu, các nhóm của Viện xa nhau dần.
Trước đó, Tổng cục Điện tử - Tin học ra đời ngày 16 tháng 12 năm 1983, do TS Trịnh Đông A lãnh đạo, TS Nguyễn Xuân Quỳnh làm viện trưởng Viện ĐT-TH trực thuộc Tổng cục đó. A Quỳnh có đầu óc thực tiễn hơn, lại lấy được thêm mấy người học ở Bỉ về. Viện này lắp ráp loạt máy tính “Bamboo” chạy DOS, chủ yếu được dùng để đào tạo và soạn thảo văn bản, sau này mới có màn hình màu.
Liên hiệp các xí nghiệp điện tử VN hình thành sau 1975 do tiếp nhận những cơ sở cũ của miền Nam về điện tử. Anh Ngoạn là Tổng giám đốc cho biết hồi đó Liên hiệp chủ yếu lắp tivi, trong đó có máy Neptune của Ba Lan bán 200 USD/chiếc năm 1981. Anh C đã bàn với anh Ngoạn mở thêm dây chuyền lắp đặt máy tính cá nhân (thời điểm đó sắp ra đời máy IBM-PC). Nếu thành công thì khiêm tốn mà nói sẽ là một trong những dự án tin học hay nhất Đông Nam Á, thật ra là nhất châu Á thời ấy ! Nhưng hồi đó ta không đủ ngoại tệ, còn Liên Xô trong khối SEV cũng không cho VN làm mà “phân công” cho Đông Đức… !
Vụ Sinco
Vụ Sinco: Sinco là một cơ sở may hàng đầu mà ta tiếp quản lại sau thống nhất. Hồi đó anh Trường giám đốc có chân trong Thành ủy, phải báo cáo lãnh đạo thành phố và ông Sáu Lớn hàng ngày về Sinco. Anh Trường ra bắc tìm cơ quan nào về công nghệ vào để giúp quản lý doanh nghiệp. Thế là anh C được đi máy bay vào (vì còn phụ trách cả việc làm với anh Ngoạn), còn 3 anh em Mẫn, Đức, Thuận đi tàu hỏa vào. Lúc đầu thấy mấy anh em miền Bắc mặt mũi non choẹt cánh miền Nam không tin là làm được, nhưng chỉ sau thời gian ngắn họ đã “tâm phục khẩu phục”, nhiều người tốt quý mến mời anh em về nhà chơi, mới thấy họ cũng chịu rất nhiều sức ép trong cuộc sống và công việc. Có những kẻ cũng lấy cắp cả tài liệu, công nghệ của anh em...
Anh C nhớ mãi cơ quan Sinco lúc đó giống như một khách sạn 5 sao, có bể bơi. Một ngày theo thói quen buổi sáng anh đang bơi thì thấy một tay đứng tuổi lấy chân đá đá nước, rồi hỏi anh rất sẵng. Anh cũng “sẵng” lại nhưng đâu biết đấy là ông Võ Văn Kiệt! Thế mà sau đó khi anh lên bờ nói chuyện vào công việc thì ông Kiệt bỏ qua hết, chỉ hỏi về việc phát triển công nghiệp làm sao được cho thành phố. Đáng tiếc sau đó anh C phải đi Pháp, ở nhà nhóm anh Mẫn không tận dụng được sự quan tâm của ông Sáu Lớn... nhưng kết quả của vụ Sinco rất tốt đẹp, uy tín của Mẫn lên cao! (Mẫn suýt gả em gái tên Minh cho anh C, lại là câu chuyện khác nữa...).
FB Nam Nguyen
(còn tiếp)
Xem online : PHẦN 3 – HÃY SỐ HÓA THẾ GIỚI NÀY!