Trang nhà > Văn chương > Cổ điển > Tiễn sứ Bắc Trương Hiển Khanh
Trần Thái Tông
Tiễn sứ Bắc Trương Hiển Khanh
Thứ Năm 8, Tháng Tám 2019, bởi
Trần Thái Tông (1218-1277) lên ngôi khi 8 tuổi. Trong lời tựa tác phẩm đầu tay Thiền Tông Chỉ Nam vua cho biết tự mình học Phật theo lời khuyên của Trúc Lâm quốc sư. Về sau vua viết Kim Cương Tam Muội Kinh Chú Giải, Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi, Bình Ðẳng Lễ Sám Văn, Khóa Hư Lục, Thi Tập. Ngài còn là nhà chính trị và thi sĩ xuất sắc và bài thơ sau là một ví dụ.
Nguyên tác
送北使張顯卿
顧無瓊報自懷慚
極目江皋意不堪
馬首秋風吹劍鋏
屋梁落月照書庵
幕空難駐燕歸北
地暖愁聞雁別南
此去未知傾蓋日
詩篇聊為當清談
Phiên âm Hán Việt
Tống Bắc sứ Trương Hiển Khanh
Cố vô quỳnh báo tự hoài tàm,
Cực mục giang cao ý bất kham.
Mã thủ thu phong xuy kiếm giáp,
Ốc lương lạc nguyệt chiếu thư am.
Mạc không nan trú yến quy Bắc,
Địa noãn sầu văn nhạn biệt Nam.
Thử khứ vị tri khuynh cái nhật,
Thi thiên liêu vị đáng thanh đàm.
Dịch thơ
Tiễn sứ Bắc Trương Hiển Khanh
Thẹn không ngọc báu tạ ơn lòng,
Bát ngát nhìn sông dạ rối bong.
Đầu ngựa gió thu khua bảo kiếm,
Nóc nhà trăng dọi sáng thư phòng.
Én về đất Bắc màn trơ trọi,
Nhạn biệt trời Nam tiếng não nùng.
Nghiêng lọng ngày nào chưa dễ biết,
Thơ này xin thế chuyện riêng chung.
(Đào Phương Bình)
Dịch nghĩa
Tiễn sứ Bắc Trương Hiển Khanh
Nghĩ không có ngọc quỳnh đáp lại lòng tự thẹn,
Trên bờ sông nhìn xa mãi xiết bao bùi ngùi.
Gió thu trước đầu ngựa thổi vào thanh gươm,
Ánh trăng lọt qua rường nhà dọi vào phòng sách.
Màn trống khó ngăn chim én về phương Bắc,
Đất ấm buồn nghe chim nhạn biệt phương Nam.
Lần này chưa biết ngày nào mới có dịp nghiêng lọng,
Xin vì cuộc chuyện trò tao nhã mà có một bài thơ.
Chú thích
Trương Hiển Khanh tức Trương Lập Đạo 張立道, sang sứ nước ta lần thứ nhất năm 1265 để tuyên dụ chiếu chỉ của Hốt Tất Liệt và Trần Thái Tông đã làm bài thơ trên để tiễn chân. Y đi sứ lần thứ hai năm 1291 nhằm dụ nước ta quy phục và bắt Trần Nhân Tông thân sang chầu. Tuy nhiên, do 3 lần chiến thắng của dân ta và thái độ mềm mỏng nhưng kiên quyết của vua tôi nhà Trần, Hiển Khanh phải kính nể viết:
安南雖小文章大
未可輕談井氐蛙
"An Nam tuy tiểu văn chương đại
Vị khả khinh đàm tỉnh để oa"
(An Nam tuy nhỏ nhưng có văn chương
Chưa thể nói nông cạn họ là ếch ngồi đáy giếng).
Nguồn: Thơ đi sứ, NXB Khoa học xã hội, 1993