Marco Polo (1254-1324)

Trong thời Trung Cổ, không một người châu Âu nào đã đi du lịch qua phía đông quá xa như Marco Polo và đã mang về các tin tức của một xứ sở xa lạ là nước Trung Hoa. Cuộc viễn du của Marco Polo đã đóng góp vào sự hiểu biết của người tây phương về châu Á, mở ra các đối thoại và mậu dịch với châu Á, giúp công vào việc làm giầu cho xứ Venice cùng các thành phố khác của nước Ý nhờ đó Thời Phục Hưng đã phát triển.

Marco Polo không phải là người châu Âu đầu tiên tới được Bắc Kinh nhưng là người đầu tiên mô tả từng chi tiết về các cung điện, lối sống và triều đình của Đại Hãn nhà Nguyên tại Bắc Kinh, người đầu tiên nói về các miền đất Java, Sumatra, Thái Lan và Miến Điện. Sự giàu có của nước Trung Hoa vào thế kỷ 14 đã là điều nghi ngờ và mơ ước của các người tây phương, họ hỏi làm sao tới được miền đất trù phú đó, nếu không bằng đường bộ thì bằng đường biển. Marco Polo đã trải qua 24 năm tại một thế giới xa lạ và còn bí ẩn đối với người châu Âu, sự bí ẩn giống như của các hành tinh đối với chúng ta ngày nay. Câu chuyện kể của Marco Polo về nước Trung Hoa được coi là một loại huyền thoại và trong 200 năm, cuốn sách “Mô tả về Thế Giới” của ông đã là nguồn tin tức chính về một xứ phương đông chưa được biết tới.

Chuyến đi buôn của người cha Nicolo Polo

Vào thế kỷ 13, châu Âu đã trải qua Thời Kỳ Đen Tối (the Dark Ages) và cô lập, chuyển sang giai đoạn phát triển về thương mại và chiến tranh với vùng Cận Đông. Dân chúng của châu Âu gia tăng, các thành phố bắt đầu mở rộng khiến cho có nhu cầu về hàng hóa. Vào thời đại đó, các nhà quý tộc thường khinh rẻ ngành buôn bán nên đã xuất hiện một tầng lớp trung lưu gồm các thương nhân tại một số thành phố lớn nhỏ. Trong các địa điểm đông dân cư đang phát triển, không nơi nào thích hợp với công việc mậu dịch hơn thành phố Venice của nước Ý. Đây là nơi lý tưởng, nằm trên biển Adriatic và hướng về phương Đông.

Năm 1254, ông Nicolo Polo cùng người em trai tên là Maffeo, là hai thương nhân về nữ trang, đã thực hiện một chuyến đi xa, tới thành phố Constantinople, rồi cũng do công việc thương mại, hai người này đã đi khá xa về phía đông, tới tận Bukhara, sâu vào bên trong miền đất thời bấy giờ thuộc quyền kiểm soát của quân Mông Cổ. Người Mông Cổ đã từ phần đất phía bắc của nước Trung Hoa, tràn qua đánh chiếm châu Âu và lập nên các lãnh thổ mới do các Khả Hãn cai trị. Tại nước Nga, người Mông Cổ được gọi là rợ Thát Đát (Tartars).

Hai anh em thương nhân này đã bị mắc kẹt trong xứ của người Thát Đát trong 3 năm vì các trận chiến quanh vùng, vì các bọn cướp đe dọa đường về. Cuối cùng, nhân một chuyến về thăm triều đình Đại Hãn tại Trung Hoa của một vương hầu Thát Đát, hai anh em Polo được mời đi theo. Đây là cơ hội rời khỏi miền Bukhara một cách an toàn, nên hai thương nhân này đã nhận lời theo đoàn sứ quân ra đi.

Năm 1265, sau hơn một năm trời gian nan trên đường trường, hai anh em Nicolo và Maffeo đã tới được Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) và được Đại Hãn Hốt Tất Liệt (Kublai Khan) đón tiếp niềm nở. Đại Hãn là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, vị hoàng đế đã lập nên đế quốc Mông Cổ rất rộng lớn, trải dài từ miền bắc châu Á tới tận các phần đất phía đông của châu Âu.

20 năm về trước, đã có vài người châu Âu là các thương nhân hay các tu sĩ tới được nước Trung Hoa và xứ Mông Cổ, nhưng Nicolo và Maffeo là hai người châu Âu đầu tiên được trình diện trước triều đình của Đại Hãn. Hai thương nhân miền Venice khi tới Yên Kinh, đã rất ngạc nhiên về nhiều điều mới lạ.

Kinh đô này có các bức tường thành cao bao vây chung quanh và phần bên trong tường thành được phân chia thành nhiều vùng với lâu đài hoàng gia ở giữa. Anh em nhà Polo cũng rất cảm kích trước lòng hiếu khách của Đại Hãn và sự xuất hiện của những người xa lạ, từ một xứ chưa được biết tới, đã khiến cho Đại Hãn Hốt Tất Liệt phải quan tâm. Đại Hãn cũng thắc mắc về đạo Thiên Chúa nên khi anh em Polo rời khỏi Trung Hoa, nhà vua đã yêu cầu họ mang một bức thư gửi cho Giáo Hoàng, yêu cầu phái đến triều đình Mông Cổ 100 tu sĩ học giả. Đại Hãn cũng chân thành mời anh em Polo trở lại Trung Hoa đồng thời cấp cho họ một giấy phép có đóng mộc vàng, để bảo đảm an toàn lúc đi đường.

Năm 1269, hai anh em Polo đã về tới Venice thì được biết bà vợ của Nicolo đã qua đời sau lần sinh hạ một cậu con trai đặt tên là Marco Polo và cậu này được một người trong gia đình nuôi dưỡng. Lúc này, cậu Marco Polo đã là một thiếu niên 15 tuổi, lanh lẹ, tháo vát, thường lân la chơi đùa tại bến tầu và quen biết với khá nhiều thủy thủ.

Chuyến đi xa của Marco Polo

Hai năm sau ngày trở về, ông Nicolo lại cùng với người em trai xuống tầu từ Venice và trong lần viễn du này, có dẫn theo cậu con trai Marco. Khi đến Jerusalem thì vị Giáo Hoàng quen biết khi trước đã qua đời trong khi đó các hồng y chưa bầu ra được một Giáo Hoàng mới. Anh em nhà Polo đành quyết định vẫn ra đi với 2 tu sĩ và một số dầu thánh (holy oil). Đường đi gian truân đã làm cho 2 tu sĩ nản lòng rồi vì lo sợ cho sự an toàn, họ đã giả vờ bệnh nặng và trở về, còn các thương nhân Venice vẫn tiếp tục lên đường. Marco Polo lúc này là cậu thanh niên yêu thích thiên nhiên, có đầu óc thực tế, biết nhận xét những điều xa lạ, nên đã giữ sổ nhật ký, ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong cuộc hành trình.

Tượng ở vườn Villa Borghese, Roma

Rời Jerusalem bằng thuyền, hai thương nhân tới thị trấn Acre rồi thị trấn Ayas. Tại nơi này họ lên bờ, đi theo đoàn lạc đà. Khi hai thương nhân đã rời khỏi Jerusalem thì được tin Theobald of Piacenza được bầu làm Giáo Hoàng Gregori X. Để tránh nơi giao tranh giữa hai lực lượng Thập Tự Chinh (Crusaders) và các quân Hồi Giáo, họ đã đi về phía bắc, hướng tới Hắc Hải rồi vòng qua hướng đông, tới gần núi Ararat, nơi mà nhiều người tin rằng con thuyền lớn của ông Noah đã được kéo lên bờ. Đoàn lữ hành cũng đã đi qua các ngọn đồi của miền nam xứ Georgia thuộc nước Nga ngày nay. Các vùng đất này đều quen thuộc với các thương nhân châu Âu nhưng riêng với Marco Polo, cậu rất ngạc nhiên trước các loài chim lạ, loại đá muối, các loại hồng ngọc và các giếng dầu. Loại dầu này không dùng để ăn mà được người dân địa phương chữa các bệnh ngoài da cho người và lạc đà, và dùng để đốt đèn vào ban đêm.

Khi vào xứ Iran, anh em nhà Polo đã dừng chân tại Saba, nơi mà theo chuyện kể, 3 tu sĩ Magi đã mang quà tặng, theo chỉ hướng của các vì sao tới thăm viếng Chúa Hài Đồng tại Bethlehem. Tới lúc này, đoàn thương nhân đã đi quá xa, tới vùng xa lạ và nguy hiểm, đi rất chậm với tốc độ từ 10 tới 20 dậm một ngày, qua các thung lũng lạnh lẽo, các xa mạc nóng bỏng và toàn sỏi đá, không còn thấy các cây cối xanh tươi. Khi đến thị trấn Kerman, anh em Polo cho rằng nên dùng đường biển để tới Trung Hoa, họ đã đổi hướng về phía nam, tiến tới hải cảng Hormuz nằm trong vịnh Ba Tư. Trên đường đi, họ đã thấy các làng mạc ẩn hiện sau các bức tường thành cao đắp bằng đất để ngăn cản loại quân chuyên cướp bóc Karaunas. Bỗng nhiên, bầu trời tối sầm lại và trong trận bão cát, đoàn thương nhân bị quân cướp kể trên ập tới đánh phá. Marco Polo đã kể lại rằng người Karaunas biết dùng phép phù thủy khiến cho trời quang trở thành tối tăm, mọi người khó nhìn thấy mặt nhau trừ khi đứng rất gần nhau. Trong trận đánh cướp này, cha và chú Polo cũng như Marco đã thoát nạn nhờ may mắn, một số người cùng đi đường bị bắt, nhiều kẻ bị giết. Cuối cùng, đoàn lữ hành cũng tới được hải cảng Hormuz. Tại nơi này, khi nhìn thấy các con thuyền đi biển mỏng manh, quấn bằng dây dừa, các kẻ viễn du đã phải đổi ý, quay trở lại thị trấn Kerman, theo Con Đường Tơ Lụa hướng lên phía bắc rồi đi về phía đông, tới thành phố Balkh tại mạn bắc của xứ Afghanistan.

Balkh 50 năm trước đó là một thành phố với các lâu đài tráng lệ xây bằng đá hoa trắng, là kinh đô của xứ Bactria và cũng chính tại nơi đây, Đại Đế Alexander đã cưới công chúa của vua Ba Tư Davis. Nhưng vào lúc này, Marco Polo thấy thành phố đã bị cháy rụi, trở thành bình địa, tàn phá do đoàn quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn. Sau khi rời khỏi Balkh, gia đình Polo đã đi về hướng Badakhshan là một tỉnh nằm về phía bắc của rặng núi Hindu Kush và cũng là nơi có nhiều mỏ đá màu xanh da trời, gọi tên là “lapis lazuli”. Marco Polo cũng ghi nhận rằng nơi này sản xuất ra các loại hồng ngọc rất quý và đây cũng là nơi có khí hậu rất tốt, sớm làm phục hồi sức khỏe của bệnh nhân. Từ Badakhshan, đoàn lữ hành đi qua cao nguyên Pamir, một vùng mà Marco Polo đã thấy có rất nhiều loại hươu sừng rất dài. Rồi đoàn người leo lên trên một cao nguyên 12.000 bộ, được gọi là “Mái nhà của thế giới” (the Roof of the World). Marco Polo đã ghi trong sổ rằng: “không thấy có chim muông nào trên miền núi” và “lửa không còn cho cùng sức nóng như ở các mạn dưới thấp”.

Từ miền núi cao, đoàn lữ hành xuống thấp dần, lọt vào vùng Tân Cương, một vùng có các ốc đảo xanh tươi và bờ sông đầy loại đá hoa cương. Khi tới thị trấn Lop, đoàn lữ hành chuẩn bị băng qua phần phía nam của Sa mạc Takla Makan. Theo lời ghi chép của Marco Polo thì “những người sửa soạn vượt qua sa mạc đã nghỉ ngơi tại thị trấn này một tuần lễ để phục hồi sức người và vật, rồi họ lo một tháng thực phẩm cho cuộc hành trình. Khi rời thị trấn này, họ đi vào sa mạc. Chiều dài của sa mạc lớn tới độ người ta nói rằng phải mất một năm hay hơn để đi từ đầu này tới đầu kia, và đi theo chiều ngang ngắn nhất cũng phải mất một tháng”. Người dân địa phương tin rằng sa mạc Takla Makan có các loại ma quỷ, gọi tên người, giả làm kẻ đồng hành và đưa các kẻ lữ hành tới chỗ chết. Vì vậy anh em nhà Polo đã phải rất cẩn thận trước sa mạc cát nóng, tạo ra các ảo ảnh. Trong nhiều tuần lễ, họ đã đi men theo phía nam của sa mạc Gobi, tới được thị trấn Kumul rồi vào xứ Mông Cổ. Đây là phần đất có giống người Thát Đát cư ngụ. Marco Polo đã thấy tận mắt loại thạch miên (asbetos), nhìn thấy bức tượng Phật nằm rất lớn và đã ghi chép các nhận xét chính xác về người Mông Cổ : “các người Thát Đát giàu có mặc y phục bằng lụa và vàng, bằng da và lông của các thú vật với các kiểu cách sang trọng. Người Thát Đát rất gan dạ trong trận chiến, tới độ cực đoan. Họ có thể chịu đựng mọi loại thiếu thốn và khi cần, có thể sống cả tháng bằng sữa của lừa ngựa hoang mà họ săn bắt được. Các người đàn ông Thát Đát được huấn luyện sống trên lưng ngựa hai ngày mà không xuống đất, ngủ trên lưng ngựa khi ngựa ăn cỏ. Không một giống dân nào trên trái đất vượt hơn họ về cách chịu đựng các khó khăn và kiên nhẫn. Nếu hoàn cảnh cần đến, họ có thể đi bộ 10 ngày mà không đốt lửa hay dùng bữa. Trong thời gian này, họ sống bằng máu ngựa”.

Sau khi rời thành phố Venice trong 3 năm rưỡi, anh em Polo đã vượt qua 8,000 dậm đường, băng qua các miền đất rất khó đi và nguy hiểm. Sự việc đoàn lữ hành tới đất Mông Cổ đã được báo về cho Đại Hãn rõ và nhà vua đã cho người đón trước ở khoảng cách 40 ngày đường, ra lệnh cho mỗi nơi dừng chân dành cho họ các tiện nghi tối đa.

Mùa hè năm 1275, đoàn lữ hành tiến vào cung thành Mông Cổ là Thượng Đô (Shangtu), nơi có các lâu đài mùa hè rất lớn bằng đá hoa rực rỡ, tọa lạc trên vùng đất rộng 16 dậm vuông, với các suối nước và thật nhiều hươu nai cùng các con thú khác mà Đại Hãn đã săn bắt được bằng các con báo rừng hay diều hâu. Vào thời kỳ này, đế quốc Mông Cổ là miền đất rộng lớn nhất chưa từng thấy, trải dài từ bờ biển Trung Hoa ở phía đông tới tận xứ Hungari ở phía tây. Hai ông Polo và cậu Marco được dẫn tới một đại sảnh có dát vàng rực rỡ. Ở giữa cung điện và ngồi trên ngai vàng là Đại Hãn Hốt Tất Liệt mặc áo lụa thêu chỉ vàng, vào cỡ tuổi 60, là một nhân vật oai vệ, có chiều cao trung bình nhưng vạm vỡ, với đôi má hồng và “đôi mắt đẹp màu đen”. Sau khi quỳ lậy, ông Nicolo trình diện cậu Marco là “kẻ hầu của nhà vua và cũng là con trai của tôi” thì được Đại Hãn trả lời là rất vui mừng đón tiếp, rồi nhà vua hạ lệnh tổ chức tiệc rượu.

Thượng Đô là nơi nghỉ mùa hè của Đại Hãn, tọa lạc về phía bắc 200 dậm và không xa Vạn Lý Trường Thành. Tới cuối tháng 8, nhà vua lại dọn về sống tại Yên Kinh (ngày nay là Bắc Kinh), một nơi có các cung điện rực rỡ hơn. Marco Polo dần dần trở nên một trong các cận thần của vua Mông Cổ nên chàng thanh niên xứ Venice này đã có nhiều cơ hội quan sát và ghi chép về lối sinh hoạt tại triều đình. Đại Hãn Hốt Tất Liệt tuy bản chất là người Mông Cổ nhưng đã chấp nhận nhiều lối sống văn minh của người Hán. Nhà vua có 4 hoàng hậu với cả ngàn người hầu cận. Trong các buổi thiết triều, một trong các hoàng hậu cũng được ngồi vào ghế danh dự, ngang hàng với nhà vua. Đại Hãn còn có hàng trăm cung tần và mỗi hai năm, từ 30 tới 40 thiếu nữ mới được tuyển lựa cẩn thận vào cung theo các tiêu chuẩn về nhan sắc và các đặc điểm khác như khi ngủ không ngáy to, thân thể không tiết ra thứ mùi khó chịu. Cha mẹ của các cung tần này thường hãnh diện khi có con gái được tuyển mộ vào cung cấm và sau vài năm sống tại hậu cung, các cung tần được nhà vua gả cho các quan trong triều. Đại Hãn là một con người nhân từ, thường ra lệnh cấp ngũ cốc và gia súc cho những miền đất bị thiên tai, hạn hán.

Đại Hãn còn có một đội ngũ các chiêm tinh gia, đúng hơn là các thầy phù thủy và Marco Polo đã mô tả họ là loại người thô lỗ, dơ bẩn, thường khoe khoang kiểm soát được gió mưa và có các khả năng huyền bí. Chung quanh Đại Hãn có các võ tướng người Mông Cổ, một số học giả người Trung Hoa và nhà vua còn dùng vài người ngoại quốc trong việc cai trị xứ sở. Đế quốc Mông Cổ vào thời kỳ này rất rộng lớn, gồm 34 tỉnh do 12 vương hầu cai trị và chịu trách nhiệm trước Đại Hãn. Tuy là một miền đất bao la nhưng người Mông Cổ đã tổ chức được một mạng lưới thông tin hữu hiệu với khoảng cách 25 dậm có một trạm liên lạc, với ngựa khỏe và thông tin viên sẵn sàng mang các văn thư, hiệu lệnh của Đại Hãn tới các nơi xa xôi trong một thời gian kỷ lục. Marco Polo đã kể lại rằng một kỵ mã thông tin có thể vượt 250 dậm trong một ngày nhờ đó vào mùa hè, trái cây được hái buổi sáng tại Yên Kinh, đã được đưa đến Thượng Đô vào buổi chiều ngày hôm sau, trên một hành trình mà bình thường cần tới 10 ngày đi đường. Marco Polo còn mô tả về tiền giấy, một thứ tiền được chấp nhận tại mọi nơi trong đế quốc Mông Cổ, nhờ đó các lái buôn, các kẻ lữ hành đã không gặp khó khăn khi phải mang tiền đi xa. Người Trung Hoa đã dùng vỏ cây dâu, đâm vụn thành một thứ bột giấy giống như bông gòn và làm ra một loại giấy màu đen rồi trên đó có đóng triện đỏ của nhà vua. Việc làm bạc giả bị trừng phạt bằng tội tử hình.

Trong vài năm sống tại triều đình của Đại Hãn Hốt Tất Liệt, Marco Polo đã quan sát và học hỏi được nhiều phong tục, tập quán của các người Á châu, lại nói được ít nhất bốn ngôn ngữ địa phương của đế quốc Mông Cổ, khiến cho Đại Hãn rất khâm phục trí thông minh của cậu và đã nhờ chàng thanh niên này thi hành các sứ mạng tại miền nam Trung Hoa, tại các xứ Bengal và Miến Điện. Do Đại Hãn ưa thích nghe kể về những gì chưa được biết tới, Marco Polo đã ghi chép nhiều chi tiết về những miền đất đã đi qua. Trong 17 năm trường phục vụ cho Đại Hãn, Marco Polo đã đặt chân tới từ miền bắc xứ Mông Cổ tới tận miền nam là Vân Nam, từ các tỉnh bờ biển phía đông tới xứ Tây Tạng về phía tây và còn được bổ nhiệm làm quan tại Hàng Châu (Hangchow). Marco Polo đã mô tả thành phố này giống như Venice của xứ Ý, được xây dựng trên các giòng sông với chu vi vào khoảng 100 dậm. Nơi này có hai ngàn cây cầu bắc qua sông và con đường lớn của thành phố rộng tới 40 bộ theo chiều ngang. Trên đại lộ chính này, có tới 10 trung tâm thương mại với các cửa tiệm bán thực phẩm, rượu, gia vị, và cả các nữ trang như ngọc trai. Mỗi tuần, người dân tại nơi đây họp chợ 2 hay 3 kỳ và Marco Polo đã mô tả cảnh phồn thịnh của sinh hoạt tại Hàng Châu. Nơi chợ có đủ mặt hàng, từ các thú vật như hươu, nai, công, trĩ, tới bò, heo, gà, vịt, các loại lá cây và trái cây, mùa nào thức nấy không thiếu chi. Trong khi cha Nicolo và chú Maffeo mải lo buôn bán nữ trang thì Marco Polo đã đi công tác qua nhiều địa phương, biết rõ về đất nước Trung Hoa hơn phần lớn các người Mông Cổ và người Hán. Các lần đi công tác xa xôi không phải là an toàn vì dọc đường thường có trộm cướp, dã thú, thác ghềnh. Các đoàn lữ hành thường phải đóng trại vào ban đêm, đốt lửa để xua đuổi mãnh thú. Marco Polo đã có dịp tới Tứ Xuyên, Vân Nam và Tây Tạng, một nơi đặc biệt tiêu xài bằng thứ tiền muối. Nơi đây có các suối muối và người dân đun muối trong các chảo nóng. Khi đã sôi trong một giờ, muối được cô đọng lại thành một loại bánh nặng chừng 3 gram, mặt dưới phẳng, mặt trên cong trên đó có đóng triện của nhà vua, để trở thành một thứ tiền tệ lưu hành trong dân chúng.

17 năm sống tại Trung Hoa, một thời gian quá lâu, đã làm cho các thương nhân này nhớ nhà, mong đợi được trở về thành phố Venice thân yêu. Marco Polo đã ghi lại rằng càng ngày, gia đình Polo càng quyết tâm quay về vì Đại Hãn càng già, nếu qua đời bất ngờ thì khó lòng xin được các ân sủng để trở về xứ sở. Rồi vào một ngày đẹp trời, Marco Polo chờ lúc Đại Hãn vui vẻ, đã sụp lậy dưới chân để xin cho mình và gia đình được phép ra đi. Vào lúc này, Đại Hãn đã tỏ ra bất bình. Nhà vua có quyền tuyệt đối, việc từ chối thường xẩy ra và ba người Ý sẽ trở thành các người tù mãn đời trên đất Trung Hoa, và châu Âu sẽ không có cơ may được nghe kể về một xứ sở giàu sang, rực rỡ nhất vào thời đại đó.

Cuộc trở về của Marco Polo

Vào khoảng năm 1286, một thân nhân của Đại Hãn là Khả Hãn Tốc Bất Đài (Arghyn Khan) đang cai trị xứ Ba Tư, đã phái sứ giả về Trung Hoa yêu cầu Đại Hãn kén chọn cho một cô vợ mới. Một thiếu nữ 17 tuổi, đầy đủ tài sắc, đã được tuyển lựa và phái đoàn này đã lên đường về Ba Tư theo đường bộ. Nhưng sau một năm, đoàn lữ hành đã phải quay lại Yên Kinh vì chiến tranh giữa các bộ lạc địa phương. Chính vào thời gian này, Marco Polo cũng mới trở về sau một chuyến công tác xa và đã được phái đoàn Mông Cổ tại xứ Ba Tư yêu cầu hướng dẫn họ đi bằng đường biển. Chương trình cuộc trở về châu Âu được trình lên Đại Hãn và nhà vua bất đắc dĩ phải nhận lời, bằng lòng để Marco Polo với cha và chú ra đi, đồng thời Đại Hãn cũng gửi theo đoàn vài bức thư viết cho các vị vua của châu Âu.

Năm 1292, một đoàn thuyền gồm 14 chiếc với hàng trăm người hộ tống, gồm có đoàn sứ giả Mông Cổ từ Ba Tư với cô dâu mới, gia đình Polo, đã ra khơi từ Hàng Châu, xuôi về phía nam, qua gần bờ biển Việt Nam, tới Singapore, Sumatra, ghé Ấn Độ, Tích Lan rồi men theo mỏm cực nam của lục địa Ấn Độ và tới hải cảng Hormuz. Cuộc hành trình này kéo dài mất hai năm và trên đường đi, Marco Polo đã ghi nhận những điều mắt thấy, tai nghe về đất đai, con người, sinh vật... mà người châu Âu chưa từng biết tới. Marco Polo đã mô tả con tê giác là loại thú có một sừng, kể chuyện về cướp biển... Các gian nguy trên đường về đã cướp đi nhiều mạng sống. Cuối cùng, đoàn sứ giả cũng tới được nước Ba Tư và cô dâu được giao cho triều đình Mông Cổ địa phương nhưng Khả Hãn Tốc Bất Đài đã qua đời và cô dâu được gả cho người con của Khả Hãn. Đường về từ xứ Ba Tư tới thành phố Venice còn khá xa. Marco Polo đã theo đường bộ, băng qua xứ Ba Tư, tới thành phố Trebizond bên bờ Hắc Hải rồi dùng thuyền, qua Constantinople. Trong cuộc hành trình, Marco Polo nghe tin báo rằng Đại Hãn đã qua đời năm 1294.

Cuối cùng vào năm 1295, hai ông Nicolo và Maffeo cùng với Marco Polo đã cập bến cảng Venice, sau 24 năm vắng mặt và cuộc hành trình đi và về dài 15,000 dậm hay 24,000 cây số. Dân địa phương và các người họ hàng đã không nhận ra và nhớ được ba kẻ lữ hành này vì họ đã vắng mặt quá lâu, tiếng nói pha lẫn giọng phát âm Mông Cổ. Ông Nicolo đã tổ chức một bữa tiệc khoản đãi các người trong giòng họ và bạn thân rồi sau bữa ăn, ba thương nhân Polo đã dùng dao, rạch các chiếc áo mà họ đã mặc trên đường trở về từ xứ Trung Hoa, đổ lên bàn nào là vàng bạc, ngọc trai, kim cương, hồng ngọc và các loại đá quý khác. Vào lúc này, Marco Polo ở vào tuổi trên 40 và không còn nghĩ tới chuyện đi xa nữa.

Đã từ lâu, Genoa và Venice là hai thành phố thù nghịch nhau. Năm 1296, quân lính Genoa đã đánh chiếm Venice và Marco Polo bị bắt. Không có sử gia nào cho biết về các lý do bị cầm tù này. Khi nằm trong nhà tù, Marco Polo đã kể lại các lần đi xa của mình và trong số các bạn tù ngồi nghe, có một văn sĩ chuyên nghiệp từ miền Pisa, tên là Rustichello. Vì bị hấp dẫn bởi cuộc hành trình, Rustichello đã yêu cầu Marco Polo cho mượn cuốn sổ ghi chép. Từ các câu chuyện kể lại và cuốn nhật ký, Rustichello đã dùng lối viết văn của minh, mô tả lại chuyến viễn du của Marco Polo và cuốn truyện được hoàn tất một năm trước khi Marco Polo được thả ra khỏi nhà tù vào năm 1299.

Cuốn truyện có tên là “Mô tả về Thế Giới” (Description of the World) được Rustichello viết bằng tiếng Pháp cổ, là ngôn ngữ văn chương của nước Ý vào thời kỳ đó. Cuốn truyện cho biết các tin tức đầu tiên về nước Trung Hoa mà vào thời đó còn được gọi là “Cathay” và Marco Polo đã kể về sự giàu sang của Đại Hãn Hốt Tất Liệt, về cách khai mỏ và dùng than đá, một loại nhiên liệu mà người châu Âu chưa được biết tới. Marco Polo cũng mô tả cách dùng tiền giấy trên đó có dấu ấn của nhà vua, các phong tục của xứ Trung Hoa, các lâu đài tráng lệ, cùng nhiều sự việc mà người châu Âu thời đó đã không tin, một phần cũng do Marco Polo nói quá sự thật.

Vào đầu thế kỷ 14, ngành ấn loát chưa được phát minh ra tại châu Âu. Cuốn truyện “Mô tả về Thế Giới” của Marco Polo đã được một số học giả chép tay và phổ biến, gợi trí tò mò, gây ảnh hưởng tới các nhà thám hiểm. Sau khi hai xứ Genoa và Venice tái lập hòa bình năm 1299, Marco Polo được thả ra khỏi tù. Ông lập gia đình và có ba con gái nhưng không giàu có lúc qua đời vào năm 1324 mặc dù đã từng mang về vàng ngọc từ xứ Trung Hoa. Marco Polo trở nên nổi tiếng tại địa phương nhờ các câu chuyện hấp dẫn, khó tin và khi đó nhiều người bạn hỏi nhà thám hiểm có muốn bỏ bớt những phần nói quá sự thật không, thì ông đã trả lời “tôi mới chỉ kể ra một nửa những gì trông thấy”.

Các điều quan sát và tường thuật của Marco Polo đã gây ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ, tới các học giả, các nhà địa dư, các thợ vẽ bản đồ và các nhà thám hiểm. Một trong các nhầm lẫn của Marco Polo là đã đặt xứ Nhật Bản giữa Trung Hoa và châu Âu. Sự giàu sang của châu Á đã hấp dẫn các nhà thám hiểm như Christopher Columbus. Họ tin tưởng rằng con người nếu không dùng đường bộ, thì có thể dùng đường biển để tới được xứ Trung Hoa.

Trong thời Trung Cổ tại châu Âu, chưa có nhà thám hiểm nào đi xa về phía đông như Marco Polo, một nhân vật đã kể về các nền văn hóa khác, xa lạ với những điều hiểu biết của người đương thời, đã đóng góp vào việc mở ra các liên lạc đông-tây về mậu dịch và kiến thức.

Phạm Văn Tuấn