Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Lịch sử > Trung đại > BUỔI ĐẦU TRUYỀN ĐẠO KITÔ Ở VIỆT NAM

BUỔI ĐẦU TRUYỀN ĐẠO KITÔ Ở VIỆT NAM

Thứ Tư 11, Tháng Mười Hai 2019, bởi From FB

Tin Mừng đến Việt Nam từ thời nào?

Sách in năm 1614 của cha P.O. de Cevallos

Có truyền thuyết cho rằng Tin Mừng đã đến Việt Nam từ thời thánh Tôma hoặc thời Sĩ Nhiếp tức Sĩ Vương, thái thú Giao Chỉ dưới triều Tây Hán trong những năm 187-226.

Truyền thuyết thứ hai nói về một người Arập gặp một tu sĩ Can Đê gốc thành Nedjran nói rằng khi đi Trung Quốc, ông đi qua kinh đô Lư Kinh. Tu sĩ thấy có cộng đoàn Ki Tô hữu kính nhớ Mùa Chay và các lễ trọng trong đạo ở đó. Lư Kinh phải chăng là kinh đô Hoa Lư của triều đại Lê Đại Hành lúc đó vừa chinh phạt xong nước Seuf (Chiêm Thành)?

Năm 1516 Andrade người Bồ Đào Nha bị bão đánh trôi dạt vào Cù lao Chăm. Năm 1523, ông trở lại xin buôn bán nhưng việc không thành nên đã dựng Thánh Giá ở đây. Ba mươi hai năm sau, tức năm 1555, Fernão Mendes Pinto còn nhìn thấy. Không thấy nói việc giảng đạo. Thánh lễ đầu tiên được cử hành trên đất Việt, tại Cù lao Chàm mùa hè năm 1555.

Theo Khâm định Việt sử quyển 33. 6B: “Nguyên Hoà nguyên niên, đời Lê trung Tông có một Dương nhân, một người đến từ biển, không nói là tu sĩ, tên là I-NI-KHU lén vào giảng đạo Gia tô ở làng Ninh Cường, Quần Anh thuộc huyện Nam Chân và làng Trà Lũ thuộc huyện Giao Thuỷ.” Nguyên Hoà nguyên niên là năm 1532 hoặc 1533.

INIKHU là ai? Tài liệu do sách Khâm Định viết vào thế kỷ 19, có chính xác không? INIKHU thuộc dòng nào vì không thể là dòng Tên, thành lập năm 1540. Các dòng truyền giáo thời điểm đó không dòng nào nhận là thành viên. Các sử gia vẫn còn tranh cãi vì không đủ lý chứng. Nên nhớ thánh Phanxicô Xaviê đến Nhật Bản năm 1549. Dù sao đây là tài liệu chính thức do nhà nước triều Nguyễn cung cấp, xác nhận… phải trân trọng thôi.

Thánh Phanxicô Xavie có ghé qua Quảng Nam và Cửa Bạng?

Linh mục Philipphê Bỉnh trong Truyện nước Nam, Đàng Ngoài chỉ Đàng Trão viết từ Kẻ Chợ nước Portugal năm 1822 có kể nhiều chi tiết hấp dẫn. Sau khi xuống tàu ở Malacca ngày 24 tháng 6 năm 1549 một thời gian, tàu gặp bão và trôi dạt vào bờ biển Quảng Nam. Nhiều người khác cho rằng thánh nhân ghé vào Cửa Bạng (Câu chuyện con cua Cửa Bạng).

Gia phả họ Đỗ ở làng Bồng Trung, Vĩnh Lộc, Thanh Hoá cho biết người con thứ hai của ông Đỗ Công Biểu là Đỗ Hưng Viễn theo đạo Hoa Lang trước năm 1580.

Có điều chắc là các linh mục Đa Minh và Phan Sinh có mặt trong những hải trình của người Bồ và Tây Ban Nha với tư cách tuyên uý. Họ giúp đỡ thuỷ thủ đoàn về phương diện thiêng liêng và loan báo Tin Mừng cho những dân tộc. Việc có một số người Việt gia nhập Giáo Hội vào đầu thế kỷ 16 và sao đó cũng dễ hiểu.

CÁC CHA DÒNG ĐA MINH

Một trong những vị nổi tiếng thời ấy là cha Đa Minh de Souza, cha có ảnh hưởng mạnh đối với các vị lãnh đạo người Bồ, vd. như Albuquerque.

Năm 1550, môn đệ của cha Souza là Gaspar da Santa Cruz theo tàu buôn đến Cần Cảo (Hà Tiên) giảng đạo cho người Khmer. Không thành công.

Hai cha Đa Minh khác là Grégoire de la Motte (Pháp) và Luis de Fonseca từ Malacca đến giảng đạo cho người Chăm và Việt ở Quảng Nam. Năm 1588 cha Fonseca bị vua Chăm chém chết, cha Motte thì chết trên đường về Malacca. Phải chăng đây là hai vị tử đạo đầu tiên?

CÁC CHA PHAN SINH

Trước cuộc truyền giáo mang tính hệ thống và phương pháp của các thừa sai dòng Tên, các thừa sai dòng Phan Sinh chỉ đóng vai trò những người tiên phong mở đường.

–* Vào năm 1580, cha Pedro de Alfaro, một linh mục Phan Sinh Tây Ban Nha, sau khi bị chính quyền Bồ Đào Nha tại Macao trục xuất, đã cùng với một anh em Phan Sinh Bồ Đào Nha tên Rodriguez de Lisboa đón tàu đi Goa để phản đối sự đối xử bất công, ngài chết trong một tai nạn rồi được hỏa táng và chôn tại duyên hải miền Trung.

–* Trong số những thừa sai Phan sinh Tây Ban Nha làm việc tại Philippin, vào năm 1578 có hai cha Juan Baptista Lucarelli (biệt danh Da Pesaro) và Bartolomé Ruiz đến. Cha Lucarelli đã có công đào tạo một thầy giảng và một tu sĩ Phan Sinh người Việt có tên Antôn ở Macao. Sau đó, cha cho họ trở về Đàng Ngoài, hoạt động tại Thanh Hoá, trong phần đất nhà Lê. Cha Lucarelli cũng có sáng kiến vẽ bức tranh mô tả cuộc phán xét để làm hình ảnh cụ thể trợ giúp trong việc dạy giáo lý.

Vào năm 1583, một nhóm gồm 8 anh em Phan Sinh dưới sự hướng dẫn của cha Diego de Oropesa từ Philippin vượt biển đến Đàng Ngoài. Thế nhưng một trận bão lớn đã cản trở cuộc hành trình. Trong đoàn người ấy, chỉ một mình cha Bartolomé Ruiz đến được Bắc Hà vào năm 1584 để gặp Mạc Mậu Hợp, vị vua soán ngôi nhà Lê Sơ tại Thăng Long.

Lịch sử có nhắc tên hai cha André dos Anjos và Jacome da Conceisao đến từ Malacca và nói tới việc các ngài giảng đạo tại Đàng Ngoài cũng như Champa; nhưng không để lại nhiều thông tin về những hoạt động của họ.

Các linh mục truyền giáo bằng các bức tranh tôn giáo, đặc biệt bức “Phán xét chung cuộc” với phụ đề bằng nhiều ngôn ngữ Á Đông “Ai muốn được cứu rỗi, ai muốn thoát khỏi hình khổ hoả ngục thì hãy trở lại và tin theo Chúa Giêsu Kitô”. Bức tranh được gởi đến các vua chúa trong vùng, chắc chắn có vua chúa ở Việt Nam.

Năm 1583 một đoàn truyền giáo Phan Sinh gồm 7 vị đến Việt Nam, nhưng do bão tố, trôi dạt vào Trung Quốc, bị bắt, sau được tha về Manila. Trong số có cha Bartholomé Ruiz, sau trở lại Việt Nam lên Kinh đô nhà Mạc, được phép giảng đạo. Nhưng không thành công. Chỉ Rửa tội được một em bé gần chết.

Nói chung vào thời đó đã có người tin theo Chúa Kitô.

CÁC CHA DÒNG AUGÚTTINÔ

Năm 1598, linh mục dòng thánh Augúttinô Rafael Madre de Dios đến rao giảng Tin Mừng tại vùng này và rửa tội cho bà Gioanna và con gái là Phanxica tại Dinhcham, Thanh Chiêm. Vì thế Hội An không phải là vùng trắng công giáo trước năm 1615.

ORDONEZ DE CEVALLOS VÀ CÔNG CHÚA MAI HOA

Giáo sĩ Tây Ban Nha Pedro Ordonez de Cevallos đã xuất bản một cuốn sách vào năm 1614 và 1628 có tường thuật nhiều sự kiện về việc cải đạo của công chúa Flora. Theo câu chuyện ấy, năm 1588 nhận lời mời của công chúa Chiêm, hai linh mục triều Alfonso de Costa và João da Sa, người Bồ đã đến Thanh Hoá giảng đạo nhưng bị trục xuất. Lúc đó thuyền Giáo sĩ Pedro Ordonez de Cevallos gặp bão tạt vào bờ. Một công chúa sau khi gặp gỡ giáo sĩ đem lòng cảm phục và muốn kết hôn. Giáo sĩ giải thích cho biết luật độc thân linh mục. Nàng đã xin học đạo và được Rửa tội ngày 22 tháng 5 năm 1591 với tên thánh Maria. Giáo sĩ gọi nàng là Maria Flora (Mai Hoa). Về sau chúa Trịnh Tùng biết việc giáo sĩ nên ra lệnh trục xuất. Mai Hoa cùng con cháu được rửa tội và đã biến nhà mình thành đan viện “Đức Mẹ Vô Nhiễm”. Chuyện còn kể tiếp về sau giáo sĩ gặp chúa Nguyễn Hoàng và rửa tội cho chúa với tên thánh Grêgôriô.

Không biết thực hư mấy chuyện trên vì các nguồn tư liệu không nhất trí với nhau.

Nói chung trong thế kỷ thứ 16, tuy đã có nhiều thừa sai đến đất Việt nhưng họ chưa quan tâm đúng mức, chưa có chương trình cụ thể truyền giáo lâu dài. Lý do theo linh mục Borri trong quyển sách “Ký sự Đàng Trong”: các tuyên uý chỉ ở Đàng Trong ba bốn tháng, giúp thuỷ thủ đoàn, sau đó họ ra đi “Các linh mục tuyên uý này không có trách nhiệm nào khác ngoài việc phục vụ người Bồ nên không quan tâm đến lợi ích của người bản xứ...” Các thông ngôn không am hiểu về ngôn ngữ tôn giáo nên đã xảy ra ngộ nhận, như câu chuyện “Con gnoo muon bau tlom laom Hoalaon chiam” trên bãi biển Hội An.

Phương pháp xử dụng hình ảnh để giảng đạo cũng không thu nhiều kết quả. Một thương gia Bồ đã gặp một tu sĩ giảng đạo lâu năm ở Cửa Hàn với một bức ảnh phán xét. Vì không biết ngôn ngữ nên dân chúng rất thờ ơ.

Tuy chưa mang lại những kết quả thiết thực nhưng sự mở đường của các vị rất quan trọng. Các vị đến sau đã rút được những bài học ưu và khuyết điểm để công việc loan báo Tin mừng được hữu hiệu hơn.