Trang nhà > Bạn đọc > Nhà báo > “Kịch bản” dời đô
Trần Chiến
“Kịch bản” dời đô
Chủ Nhật 4, Tháng Tư 2021, bởi
“Sảy nhà ra thất nghiệp”. “Một lần dọn nhà bằng ba lần cháy”. Những câu ấy chả biết đã có cách nay 1000 năm, là nói việc dọn nhà đã gian nan lắm. Huống chi là “dọn” cả cái thủ phủ sang chỗ mới, gọi đấy là “kinh sư của muôn đời…
70 năm 3 triều vua
Họ Ngô gốc Đường Lâm (đang tranh luận ở đâu…), xưng vương mở đầu giai đoạn độc lập, đóng đô Cổ Loa. Triều Ngô chính thức có 3 vua (kể cả giai đoạn bị Dương Tam Kha tiếm quyền), ở ngôi từ năm 939 đến 967. Họ Đinh gốc Hoa Lư, đóng đô luôn ở quê, 2 vua trị vì trong 12 năm, từ 968 đến 980. Nhà Tiền Lê gốc Thanh Hoá, cũng đóng Hoa Lư, 3 đời vua ngự được 29 năm. Có cái chung giữa những tiên đế trên: đóng đô gần quê gốc, không gần phương Bắc lắm hiểm hoạ, cũng không dịch quá về châu Hoan phía Nam còn đang rất hỗn mang.
Ba triều Ngô, Đinh, Lê đều lập được những chiến công cái thế: đánh tan Nam Hán, Chiêm Thành, Tống, dẹp loạn 12 sứ quân, chấm dứt tình trạng cát cứ. Nhưng đều “thọ” ngắn ngủi, cả thảy có 70 năm, lại loạn ly “đứt mạch” liên miên. Theo một cách nhìn nào đó, kinh đô, tức “ngôi nhà” của phong kiến Việt Nam bị “động”. Họ vua thay đổi liên tục làm đất nước an nguy, luôn luôn bị dòm ngó. Triều mới xoá bỏ ảnh hưởng triều cũ, triệt tiêu dòng giống nhau, cảnh ấy khiến vị nào lên cầm quyền cũng kinh, nghĩ cách ở ngôi cho bền kẻo con cháu bị nồi da nấu thịt. Đấy là điều Lý Công Uẩn không thể không nhận ra: Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp (Chiếu Dời đô).
Xét theo “mệnh trời” là vậy. Nhưng theo quan điểm ngày nay, các đời vua trên chỉ đến tầm thủ lĩnh quân sự, dựa vào núi sông hiểm trở mà lập đô, cốt thủ hiểm. Hoa Lư có hệ thống sông Hoàng Long bao bọc, là con hào tự nhiên ngăn chặn kẻ xâm nhập, nhưng ra vào cách trở, buôn bán không thể dễ dàng. Dải núi đá, đồng bằng hẹp không cho bao nhiêu tài lực. Nắm quyền lực trong tay, lại chưa được giáo hoá đến nơi, kẻ cầm quyền rất dễ coi thường thiên hạ, trở nên tàn ác. Đỉnh điểm có lẽ rơi vào đời Lê Long Đĩnh, ông vua giết anh cùng mẹ để cướp ngôi. Vua tính hiếu sát, phàm người bị hành hình, hoặc sai lấy cỏ gianh quấn vào mà đốt, để cho lửa cháy gần chết, hoặc sai kép hát người nước Tống là Liêu Thủ Tâm lấy dao ngắn dao cùn xẻo từng mảnh cho không được chết chóng (Đại Việt Sử ký toàn thư – TT). Phật giáo đang thịnh, mà vua để mía trên đầu sư Quách Ngang rồi “róc quá tay”. Chính thể như thế trong một xã hội - có lẽ là bán quân sự - tuy có độc lập nhưng chưa thể gọi là ổn định. Chỉ nhăm nhăm phòng ngự để tồn tại, chưa thoát khỏi thế “kiến bò miệng chén”, nói thế có quá chăng? Và cái lẽ phát triển càng chưa thể tính đến được. Hẳn là “đêm trước” cuộc chuyển giao xã tắc sang tay họ Lý, tình hình cực kỳ hỗn loạn, đầy rẫy nguy hiểm, khiến những tâm can nhạy cảm, trí tuệ lớn lao phải nung nấu cách thoát ra.
Cả gan một sự nghiệp lớn
Nói là “cả gan” dời đô ra chỗ bình địa, không núi sau sông trước làm hào luỹ thiên nhiên để thủ hiểm có cái lý của nó. Thăng Long trống trải, xâm lăng tràn từ phương Bắc xuống hay Chiêm Thành trong Nam ra dễ dàng hơn, có câu “phi chiến địa” đấy nhưng sau này bao phen đã bị thiêu trong ngọn lửa ngoại xâm. Đời Trần, Nguyên Mông đánh xuống, vua tôi đều bỏ thủ đô mà “du mục” trên sông, đến (Hậu) Lê thì mấy chục năm để họ Mạc chiếm cứ, phải đóng trụ sở trong xứ Thanh. Một kinh đô mở quá thì mong manh. Bù lại, nhà Lý chọn những cái được khác.
Chẳng hạn cứ chui rúc mãi trong vùng núi đá, để cho địch khó đánh mình, thì sự thể phát triển không thể mưu tính. Nhăm nhăm kế tồn tại thì mãi mãi phận ẩn náu, làm sao tỏ mặt ra thiên hạ. Giả dụ không ra Thăng Long thì mấy chục năm sau chắc gì triều Lý đã mở được các kỳ thi tuyển người tài theo tiêu chuẩn Nho giáo. Tống Bình - Đại La từ thời thuộc phủ đô hộ rất xa xưa đã là một trung tâm lớn, “đô cũ của Cao Vương” (Chiếu dời đô). Cao Vương tức Cao Biền, quan thời Đường, còn là một nhà địa lý. Trước đó, năm 824 đã có người đắp thành ở đây, thầy tướng bảo “Sức ông không đắp nổi thành lớn, sau 50 năm nữa ắt có người họ Cao đến đây đóng đô dựng phủ” (TT). Cao Biền đã chọn nơi này thì nhà Lý được hưởng cả phần “địa lợi”, “thiên thời”. Đại La với hạt nhân Kẻ Chợ ắt là nơi giao thương ra đồng bằng xung quanh, hứng được sản vật miền núi cũng như Thanh Nghệ, vai trò kinh tế phải lớn hơn Hoa Lư nhiều.
Ngoài những “yếu tố duy vật” thuyết phục người ngày nay, cách đây cả nghìn năm, những truyền thuyết, câu sấm có tác dụng rất lớn, tác động vào tâm linh đương thời. Cụ Tảo Trang Vũ Tuân Sán, khi xem Sự tích xã An Xá chép cuối cuốn gia phả chữ Hán của họ Nguyễn hiện ở Bắc Biên phát hiện đoạn thú vị. Lý Thái Tổ thấy kinh đô Hoa Lư “địa thế chật hẹp không phải đất cư trú đế vương nên định dời đi, còn đương phân vân chưa định chọn nơi nào thì bỗng thấy có con chó cái có thai cao hơn hai thước, màu sắc rất là kỳ lạ, từ nước phương Bắc sang đến chùa An Xá thì sinh nở một mẹ tám con, do đó mới ra Chiếu (dời đô)”… “Đến đời thứ 9 là Lý Chiêu Hoàng thì nhường ngôi cho nhà Trần, đời Lý chấm dứt mới thấy việc chó sinh 8 con là ứng nghiệm”. An Xá là tên xưa của Cơ Xá, có lẽ là làng cổ nhất Hà Nội, khi vua đắp kinh thành thì cho dời ra bãi giữa sông Hồng.
Ra nơi mới thì mới được phú quý để rồi sinh lễ nghĩa. Toàn thư ghi lại những phê phán của đời sau với các đời vua Lý: …chịu nhận cho bầy tôi dâng tám chữ “Kim Dũng Ngân Sinh, Nùng Bình Phiên Phục” làm hiệu thì trong việc khoe khoang lại thô bỉ nữa. (Với Thái Tông). Song nhọc sức dân xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém (với Thánh Tông). Ngay Thái Tổ khai triều cũng chưa làm sáng chính học, lại ưa thích dị đoan, bị luỵ vì chuyện đó…
Có một yếu tố không thể không nhắc đến: dời đô về Thăng Long, nhà Lý lấy chỗ gần quê hương làm “nhân hoà”. Từ đây về Đình Bảng, Hoa Lâm… thăm thú, hành lễ gần, an toàn, tin cậy, lại dễ trao đổi với những bậc tiên sư như sư Vạn Hạnh. Vua sinh ra lúc mới ba tuổi, mẹ ẵm đến nhà Lý Khánh Văn. Khánh Văn bèn nhận làm con nuôi. Bé đã thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường. Lúc còn nhỏ đi học, nhà sư ở chùa Lục Tổ là Vạn Hạnh thấy, khen rằng: “Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ” (TT). Vạn Hạnh chính là người khích lệ Lý Công Uẩn dứt triều Tiền Lê: “Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng Thân vệ (tức Công Uẩn - TC) là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm giữ binh quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nổi nữa”. Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người anh đem Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn. Song từ đấy cũng lấy thế tự phụ mới nảy ra lòng nhòm ngó ngôi vua…”. Sách Toàn thư cũng cho biết Vạn Hạnh mất năm 1025, tức 15 năm sau khi dời đô, thể nào cũng có ảnh hưởng rất lớn đến Thân vệ Công Uẩn —sau này là Lý Thái Tổ— trong các quyết định hệ trọng đến an nguy, tầm vóc đất nước.
Một người nữa cũng có vai trò lớn trong sự nghiệp Lý Công Uẩn là quan Chi hậu Đào Cam Mộc. Lê Long Đĩnh băng để lại tiếng xấu “Ngoạ Triều”, ông thăm dò ý tứ Công Uẩn, đứng ra “bàn” với các quan: Hiện nay dân chúng ức triệu khác lòng, trên dưới lìa bỏ, mọi người chán ghét tiên đế hà khắc bạo ngược, không muốn theo về vua nối mà đều có lòng suy tôn quan Thân vệ, bọn ta không nhân lúc này cùng nhau sách lập Thân vệ làm thiên tử, lỡ bối rối có xảy ra tai biến gì, liệu chúng ta có giữ được cái đầu hay không?” (TT). Cuộc chuyển giao họ vua được những trí tuệ, quyền lực lớn như vậy ủng hộ, đã diễn ra chóng vánh, không đổ máu, an toàn và thuận lòng đa số.
Đại Việt sử ký toàn thư, cuốn sử “chính thống” qua nhiều triều đại, không chép nhiều về vai trò của sư Vạn Hạnh, Đào Cam Mộc trong cuộc thiên đô. Chỉ biết rằng Công Uẩn lên ngôi được vài tháng, việc ấy đã diễn ra. 37 tuổi là giai đoạn chín của đời người, có thể quyết định những hành vi tày trời. Nhưng thật khó hình dung là từ trước đó, cái sự ngắm nghía hiểm địa Hoa Lư, “muốn” dời đô ra bình địa Đại La đã không nằm trong suy ngẫm nung nấu của những trí tuệ cái thế nói trên. Dời khỏi Hoa Lư cũng đi xa xứ Thanh, nơi thế nào tâm lý vọng (Tiền) Lê cũng còn thịnh, về gần gần quê Kinh Bắc mình để được cái “nhân hoà”, an toàn hơn chứ.
Và vừa lên ngôi mấy tháng, đến “mùa thu năm Canh Tuất” đã dời đô, liệu có nên đặt thêm cho sự kiện vĩ đại này cái ý nghĩa là một cuộc chạy trốn không? Có cái gì phải gấp gáp thế?
Để rồi, trước là nhà Lý tồn tại những 215 năm, không ngắn ngủi như Ngô Đinh Lê, sau tới Trần, Hậu Lê cũng được dằng dặc. Và sau, mở ra giai đoạn tỏ mặt với thiên hạ, “đón rước” Nho giáo vào hoà đồng với Lão, Phật cai trị đất nước.
T.C. 2010