École française d’Extrême-Orient (EFEO)

Viện Viễn Đông Bác cổ

Trường Nghiên cứu Châu Á của Pháp

Pháp

Viện Viễn Đông Bác cổ là tên tiếng Việt gọi một trung tâm nghiên cứu của Pháp về Đông phương học, chủ yếu trên địa bàn vùng Đông Á rộng lớn và đa sắc tộc. Tiền thân là Mission archéologique d’Indochine (Phái đoàn Khảo cổ học Đông Dương) từ năm 1898 và chính thức thành lập với tên gọi École française d’Extrême-Orient (viết tắt EFEO) ngày 20-1-1900, Viện có nhiệm vụ nghiên cứu và khai quật khảo cổ trên bán đảo Đông Dương.

Trụ sở đầu tiên của Viện đặt ở Sài Gòn năm 1900, tới năm 1902 Viện dời ra Hà Nội. Do các biến động của thời cuộc chiến tranh, năm 1957, Viện phải rời Hà Nội tới thủ đô của Campuchia, sau đó lại rời Phnom Penh về Paris năm 1975. Hiện nay, Viện Viễn Đông Bác cổ thuộc Bộ Giáo dục đại học và Nghiên cứu Pháp, có 17 trung tâm nghiên cứu tại 12 quốc gia châu Á. Địa chỉ chi nhánh EFEO tại TP Hà Nội: số 5a, Xóm Hạ Hồi, quận Hoàn Kiếm.

Ngay trong giai đoạn đầu, Viện đã tập hợp được nhiều nhà Đông phương học và khoa học hạng nhất bấy giờ (gồm các nhà khảo cổ học, ngôn ngữ học, dân tộc học, thực vật học, tu sĩ, truyền giáo, kiến trúc sư và sĩ quan quân đội, …). Có thể nêu ra nhiều tên tuổi lẫy lừng như: Louis Finot, Henri Maspero, Henri Parmentier, Louis Malleret, Paul Lévy, George Cœdès, Léon Vandermeesch, Gustave Dumoutier, Etienne Edmond Lunet de Lajonquière, Léopold Cadière, Maurice Durand, Auguste Bonifacy, Henri Cordier, Paul Pelliot, Louis Bezacier, André-Georges Haudricourt…


Nhóm người này đã mang đến phương pháp nghiên cứu khoa học thực chứng và những điều tra dân tộc học, bám sát thực địa từ Ấn Độ qua Đông Nam Á đến Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Nhờ có Viện Viễn Đông Bác cổ mà những công trình - di tích lịch sử Việt - Chàm vốn ít được quan tâm đã bắt đầu được bảo tồn, bảo vệ và những phế tích như Angkor tại Campuchia, những công trình - di sản văn hoá như Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, chùa Một Cột, chùa Bút Tháp… được phục chế, trùng tu.

Theo sắc lệnh ngày 3.4.1920, Viện Viễn Đông Bác cổ chính thức tiếp nhận các trợ lý, thư ký, văn thư, phiên dịch tinh thông Hán - Nôm, họa sĩ, thợ ảnh, nghệ nhân điêu khắc… là người bản xứ. Đến tháng 7.1939, Tổng thống Cộng hòa Pháp Albert Lebrun ký sắc lệnh cho phép tuyển người bản xứ vào làm việc trong đội ngũ khoa học, nghiên cứu của Viện.

Thành viên nghiên cứu (thường trực) người Việt đầu tiên của Viện Viễn Đông Bác cổ là ông Nguyễn Văn Huyên, vừa đỗ tiến sĩ dân tộc học từ Pháp và trở về Hà Nội. Theo Amaury Lorin trong cuốn sách "Paul Doumer: Toàn quyền Đông Dương (1897-1902)" thì ông Huyên được bổ nhiệm làm thành viên dự bị năm 1939 và thành viên chính thức năm 1942.

Cạnh ông còn có những trợ lý nghiên cứu, họa sĩ, cộng tác viên người Việt khác như: Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Khoan, Trần Văn Giáp, Nguyễn Thiệu Lâu, Trần Hàm Tấn, Lê Dư, Nguyễn Trọng Phấn, Công Văn Trung... Những trí thức bản địa này đã có những cống hiến lớn trong giai đoạn mở đầu lịch sử nghiên cứu khoa học của Viện Viễn Đông Bác cổ, hơn thế nữa đó là một thế hệ tinh hoa đã góp phần đặt nền móng cho nền khoa học xã hội nhân văn hiện đại ở Việt Nam.

Với đội ngũ nhân sự Pháp-Việt xuất sắc và đa dạng như thế, Viện đã tiến hành các nghiên cứu rộng khắp về khảo cổ học, giáo dục, văn hóa dân gian, phong tục tập quán, văn học, văn khắc học, tôn giáo, Phật học, suốt thời kỳ từ tiền sử đến lịch sử cận đại trên địa bàn Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung.

Xin nói thêm: bên cạnh Viện Viễn Đông Bác cổ còn có Hội những người bạn của cố đô Huế (Association des Amis du Vieux Hué, AAVH). Đó là một tổ chức phi chính phủ tuy hoạt động nghiên cứu bảo tồn văn hóa trong phạm vi hẹp hơn nhưng cũng có Bulletin des Amis du Vieux Hué (viết tắt BAVH) một tập san danh tiếng mà chúng tôi đã số hoá từ thập niên 1990 với 123 số báo xuất bản trong 366 tháng (1914-1944) và gồm khoảng 16.000 trang tiếng Pháp.

Trong hơn một thế kỷ tồn tại, Viện Viễn Đông Bác cổ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về Đông phương học. Tạp chí nghiên cứu Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient (Tập san Viện Viễn Đông Bác cổ, viết tắt BEFEO), đã trở nên quen thuộc trong phần danh mục tham khảo của nhiều sách, bài viết về khảo cổ học và lịch sử Á châu. Viện Viễn Đông Bác cổ cũng có những ảnh hưởng quan trọng đối với các sử gia Việt Nam trong thế kỷ XX.

Cũng từ rất sớm, Viện Viễn Đông Bác cổ đã rất chú trọng đến công tác đào tạo, giảng dạy; công bố các nghiên cứu bằng hoạt động xuất bản sách chuyên khảo, hoạt động báo chí với sự ra đời của nhiều tập san khoa học.

Để phục vụ khoa học, Viện Viễn Đông Bác cổ thành lập, trang bị các thư viện, bảo tàng rất quy mô. Đó còn là những địa chỉ văn hoá với kiến trúc đặc sắc như: Thư viện Viễn Đông Bác cổ (nay là Thư viện Khoa học xã hội), Bảo tàng Louis Finot (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam), Bảo tàng Henri Parmentier (Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng), Bảo tàng Blanchard de la Brosse (nay là Bảo tàng Lịch sử TP. HCM), Bảo tàng Khải Định (nay là Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế)…

Vào đầu thế kỷ XXI, Viện Viễn Đông Bác cổ chiếm một vị trí trung tâm trong mạng lưới các đối tác học thuật cấp cao và bắt đầu tham gia tích cực vào quá trình chuyển đổi kỹ thuật số đang được quốc tế hóa ngày càng tăng với giới nghiên cứu châu Á đông đảo.