Trang nhà > Khoa học > Ngôn ngữ > TRANH CÃI: AI LÀM RA CHỮ HÁN?
7651 Nguyễn Hải Hoành
TRANH CÃI: AI LÀM RA CHỮ HÁN?
Thứ Sáu 13, Tháng Giêng 2023, bởi
Chữ viết là một phát minh vĩ đại của loài người. Dân tộc nào làm ra được chữ viết thì dân tộc đó sẽ thoát ra khỏi thời kỳ tiền sử mông muội, tiến sang kỷ nguyên văn minh có sử sách ghi lại sự phát triển của dân tộc mình. Cho tới nay một số dân tộc vẫn chưa làm được chữ viết. Chữ Hán thuộc loại chữ viết ra đời sớm. Theo nhà ngôn ngữ học Trung Quốc Châu Hữu Quang, chữ Hán chính thức thành hình và ra đời cách đây khoảng hơn 3300 năm, chỉ sau một vài loại chữ viết của vùng Trung Đông. Trong hàng nghìn loại chữ viết hiện có trên thế giới, chữ Hán nổi bật với hình dạng tổ hợp đường nét giới hạn trong một ô vuông, là loại chữ viết duy nhất có tính chất biểu ý (ghi ý), khác với các loại chữ viết còn lại đều có tính chất biểu âm (ghi âm).
Tác giả của chữ Hán
Hiện nay chữ Hán đang được hơn 1,4 tỷ người trên thế giới sử dụng. Công luận phổ biến thừa nhận chữ Hán do người Trung Quốc làm ra, về sau du nhập Việt Nam, Triều Tiên/Hàn Quốc và Nhật Bản, được các nước này sử dụng theo cách riêng của mình trong hàng nghìn năm, và cuối cùng đều phải cải cách nhằm ghi được tiếng mẹ đẻ của mình. Tại Trung Quốc, chữ Hán sau khi ra đời hầu như không có thay đổi gì căn bản, mặc dù từ cuối thế kỷ XIX nước này từng tiến hành cải cách chữ Hán với quy mô cực kỳ lớn.
- Hiến pháp Hàn Quốc có quá nhiều chữ Hán xen lẫn Hangul, bởi lẽ Hangul không thể hiện chính xác ý nghĩa của những từ có tính pháp lý phức tạp và quan trọng
Cho tới nay có thể khẳng định chữ Hán là loại chữ viết duy nhất thích hợp Hán ngữ và sẽ được mãi mãi sử dụng ở Trung Quốc. Hiện vẫn chưa biết ai là người sáng chế ra loại chữ viết độc đáo này. Người Trung Quốc lưu hành truyền thuyết chữ Hán đầu tiên do Thương Hiệt (倉頡 Cang Jie) một sử quan của vua Hoàng Đế làm ra. Nhưng truyền thuyết chỉ là truyền thuyết mà thôi.
Vấn đề quyền tác giả của chữ Hán bắt đầu nổi lên sau khi trang mạng Trung Quốc “tv.sohu.com” ngày 3/2/2008 đăng bài “Giáo sư Hàn Quốc tuyên bố chữ Hán là do người Hàn Quốc phát minh”.
Bài báo cho biết: Chẳng những tranh giành quyền sáng chế chữ Hán mà mấy hôm nay người Hàn Quốc triển khai một loạt hành động tranh giành thành tựu văn hóa của Trung Quốc, như họ báo cáo Liên Hợp Quốc rằng “Kỹ thuật in chữ rời” là do Hàn Quốc phát minh, Tết Đoan Ngọ là di sản văn hóa của Hàn Quốc; Khổng Tử, người đẹp Tây Thi, thầy thuốc Lý Thời Chân… là người Hàn Quốc, Y học cổ Trung Hoa (Trung Y) cũng do người Hàn Quốc phát minh.
Bài báo viết: Tờ “Nhật báo Triều Tiên” của Hàn Quốc số ra ngày 10/10/2006 đưa tin ông Phác Chính Tú, Giáo sư lịch sử Đại học Seoul nói sau 10 năm nghiên cứu khảo chứng, ông nhận định dân tộc Triều Tiên đầu tiên phát minh ra chữ Hán; về sau khi người Triều Tiên di cư đến Trung Nguyên, họ mang chữ Hán vào Trung Quốc. Mọi người đều biết hiện nay trên lãnh thổ Trung Quốc có dân tộc Triều Tiên (Chaoxian, Korean) là dân tộc thiểu số lớn thứ hai (hơn 1,7 triệu người, chỉ sau dân tộc Tráng) trong cộng đồng 56 dân tộc nước này.
“Thời báo Hoàn cầu” của Trung Quốc số ra ngày 21/4/2011 đăng bài “Học giả Hàn Quốc tuyên bố : Tổ tiên họ phát minh ra chữ Hán”. Bài báo cho biết: ông Trần Thái Hạ 73 tuổi, nhà ngôn ngữ học số một Hàn Quốc, Giáo sư Đại học Nhân Tế Hàn Quốc mới đây đăng bài trên truyền thông nước này, nói “Chữ Hán không phải là văn tự Trung Quốc mà là do tộc Đông Di tổ tiên chúng ta sáng tạo ra, là văn tự của chúng ta. Giới học giả Trung Quốc cũng thừa nhận sự thực lịch sử này, chỉ có Hàn Quốc chưa biết.” Đông Di là tên mà các vương triều Trung Quốc ở Trung nguyên thời Tiên Tần gọi chung các bộ lạc sống ở miền đông vùng Trung nguyên, trong đó gồm cả người trên bán đảo Triều Tiên. Phát biểu của giáo sư Hạ đã gây ra tranh luận sôi nổi.
Theo Thời báo Hoàn cầu, mạng Newdaily Hàn Quốc ngày 17/4/2011 đăng một bài dài dẫn lời giáo sư Hạ nói: Tên gọi “chữ Hán” đâu phải vì đó là chữ viết do tộc Hán Trung Quốc sáng tạo; thời nhà Hán cũng chưa có tên gọi “chữ Hán”. Thứ chữ này là do tộc Đông Di của người Hàn Quốc phát triển trên cơ sở chữ viết trên mai rùa. Giáo sư Hạ còn nói: Các nhà văn-sử học Trung Quốc như Lâm Ngữ Đường [1895-1976], Vương Ngọc Triết đều đã nghiên cứu khảo chứng nguồn gốc chữ Hán, cho rằng đó là di sản văn hóa của tộc Đông Di; chữ viết của Trung Quốc là do người tộc Đông Di sáng tạo, Khổng Tử cũng là hậu duệ của nước Ân thuộc dân tộc Đông Di.
Giáo sư Hạ kể chuyện: Bộ trưởng Văn hóa Giáo dục đầu tiên của Hàn Quốc là ông An Hạo Tương từng than phiền với ông Lâm Ngữ Đường là chữ Hán đã đem lại cho Hàn Quốc nhiều vấn đề rắc rối, nhưng ông Đường đáp: “Ngài nói gì lạ thế? Chữ Hán là do tộc Đông Di các ngài làm ra, lẽ nào các ngài không biết sao?”
Giáo sư Hạ tuyên bố: Người Hàn Quốc hiện nay “coi chữ Hán là ngoại ngữ — cách làm đó là hành vi tự gây hại cho chính mình”, “Chữ Hán cùng với chữ Hangul có tính khoa học nhất, là đôi cánh của Hàn ngữ; duy nhất chỉ Hàn Quốc là quốc gia có kết cấu ngôn ngữ lý tưởng như vậy”.
Năm 1998 Giáo sư Trần Thái Hạ thành lập “Tổng hội liên hợp xúc tiến giáo dục chữ Hán toàn quốc”, ra sức đẩy mạnh dạy/học chữ Hán. “Nhật báo Trung ương” Hàn Quốc năm 2006 đưa tin về quan điểm của Giáo sư Hạ cho rằng “Môn Cờ vây có nguồn gốc từ Hàn Quốc”. Năm 2009, hai chục vị cựu Thủ tướng Hàn Quốc ký tên vào bản kiến nghị do Giáo sư Hạ dự thảo, đề nghị đẩy mạnh việc giảng dạy chữ Hán ở Hàn Quốc.
Quan điểm “Hàn Quốc làm ra chữ Hán” của Trần Thái Hạ đã tạo ra niềm phấn khởi trong một số dân mạng Hàn Quốc, nhưng các cơ quan truyền thông chính thống của nước này đều im lặng. Mấy năm nay dư luận trong dân gian hai nước Trung Quốc và Hàn Quốc xảy ra không ít tranh cãi về vấn đề di sản văn hóa, nhưng chưa rõ tại sao chính quyền hai nước đều ít nói về các vấn đề đó. Phải chăng ở đây có những điều khó nói?
Phản ứng của dư luận Trung Quốc
Dư luận Trung Quốc hăng hái và phẫn nộ phê phán quan điểm “Chữ Hán do người Triều Tiên/Hàn Quốc sáng chế”, cho rằng chữ Hán từ nước họ vào bán đảo Triều Tiên khoảng thế kỷ III sau CN, khi chữ Hán đã ra đời ở Trung Quốc được khoảng 1500 năm (thế kỷ XIII trước CN).
Thời cổ người Triều/Hàn chưa có chữ viết, phải mượn dùng chữ Hán, nhưng chỉ tầng lớp quý tộc và quan lại dùng, còn dân thì mù chữ. Ngôn ngữ Triều/Hàn thuộc ngữ hệ Altai, khác với Hán ngữ thuộc ngữ hệ Hán-Tạng (Sino-Tibetan), nên chữ Hán không ghi được tiếng Triều/Hàn. Để giải quyết khó khăn đó, vua Sejong (Thế Tôn, trị vì thời gian 1418-1450) tập họp một số quần thần và nhà trí thức nghiên cứu làm ra một bộ chữ viết riêng của người Triều/Hàn, gọi là “Huấn dân chính âm 訓民正音” (sau gọi là chữ Hangul) và công bố ngày 9/10/1446 nhằm thống nhất âm đọc tiếng Hàn trong cả nước. “Huấn dân” là “Dạy cho dân”; “Chính âm” là “Chữ viết đúng”.
Chữ Hangul là chữ viết biểu âm đầu tiên ở châu Á, là một phát minh sáng tạo lớn, niềm tự hào và biểu tượng cho sự độc lập của dân tộc Triều/Hàn, chữ viết duy nhất được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới (năm 1997). Đây là lần đầu tiên một dân tộc châu Á phát minh ra cách dùng chữ cái để ghi tiếng nói của mình. Tuy rằng khoảng hai thế kỷ sau tại Việt Nam có xuất hiện loại chữ viết hiện đại hơn, là chữ biểu âm dùng chữ cái Latin được dân ta gọi là chữ Quốc ngữ, nhưng loại chữ này không phải do người Việt Nam tự làm ra, mà chủ yếu là kết quả sáng tạo của các nhà truyền giáo châu Âu trong quá trình dùng chữ cái Latin phiên âm chữ Nôm Việt Nam.
Chữ biểu âm Hangul ban đầu có 28 chữ cái (hiện nay chỉ dùng 24), dễ học dễ nhớ, dễ viết. Chữ Hán thuộc loại chữ biểu ý, khó học khó nhớ khó viết. Nhưng do chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Hán nên trong lịch sử, tầng lớp trên người Triều/Hàn thời xưa vẫn chủ yếu dùng chữ Hán, coi là chữ quý tộc, còn chữ Hangul bị coi là chữ của người ít học và của phụ nữ. Mãi đến sau Thế chiến II khi người Triều/Hàn giành được độc lập dân tộc, họ mới chính thức bỏ chữ Hán, chỉ dùng chữ Hangul.
Tại Bắc Triều Tiên, sau năm 1945, chính quyền ra lệnh bỏ hẳn chữ Hán. Tại Nam Triều Tiên (tức Hàn Quốc, Korea), năm 1948 ban hành “Luật chuyên dùng chữ Hangul”, cấm công khai dùng chữ Hán. “Luật Quốc ngữ cơ bản” ban hành năm 2005 quy định các văn bản cơ quan nhà nước phải dùng chữ Hangul, nhưng khi viết các lệnh của Tổng thống, có thể dùng chữ Hán hoặc chữ nước ngoài ghi chú trong ngoặc. Trên thực tế văn bản Hiến pháp Hàn Quốc vẫn dùng nhiều chữ Hán (ảnh). “Nhật báo Đông Á” và “Nhật báo Triều Tiên” của nước này vẫn in tiêu đề bằng chữ Hán phồn thể. Các văn bản cơ quan nhà nước Hàn Quốc tuy dùng chữ Hangul là chính nhưng có dùng thêm chữ Hán, chủ yếu để ghi chú trong trường hợp nếu chỉ dùng chữ Hangul thì không phân biệt được chính xác nội dung cần thể hiện. Ví dụ tên người (nhất là trong thẻ căn cước), tên đất hoặc các văn bản pháp lý đòi hỏi tính chính xác cao thường có chua thêm bằng chữ Hán trong ngoặc đơn.
Theo tin trên báo Trung Quốc, ngày 9/2/2005, Chính phủ Hàn Quốc ra thông báo tuyên bố phục hồi sử dụng chữ Hán trong tất cả các công văn nhà nước và biển báo giao thông. Ngoài ra cũng đề xuất “Phương án đẩy mạnh kết hợp sử dụng chữ Hán”, theo đó bất cứ tên người, tên đất hoặc từ ngữ lịch sử nào nếu không dùng chữ Hán sẽ dễ xảy ra nhầm lẫn thì phải ghi chú thêm bằng chữ Hán. Các biển báo giao thông, biển tên di tích lịch sử, biển hướng dân nơi tham quan du lịch... đều phải viết bằng ba thứ tiếng Hàn, Anh, Trung theo thứ tự từ trên xuống.
Trên thực tế, vì tiếng Triều/Hàn có ít âm tiết (syllable) lại không có thanh điệu (tiếng Hán có 4 thanh điệu, tiếng Việt có 6), cho nên tồn tại rất nhiều từ đồng âm khác nghĩa, nếu viết toàn bộ bằng chữ Hangul biểu âm sẽ khó phân biệt ý nghĩa của các từ đồng âm. Nếu ghi chú thêm bằng chữ Hán thì sẽ có thể phân biệt chính xác, bởi lẽ chữ Hán là chữ biểu ý. Người Hàn Quốc sử dụng chữ Hán đã ngót 2000 năm, chịu ảnh hưởng rất lớn từ chữ Hán, như 70% từ ngữ tiếng Hàn có gốc chữ Hán (tương tự từ Hán-Việt ở Việt Nam, nhưng tiếng Việt giàu ngữ âm nên không tồn tại nhiều từ đồng âm khác nghĩa như tiếng Hàn). [1] Đây là lý do giải thích vì sao lượng chữ Hán chiếm tới 1/4 trong văn bản Hiến pháp Hàn Quốc hiện nay.
Tuy vậy, những điều nói trên không chứng tỏ chữ Hán là do người Triều/Hàn làm ra. Thật khó hiểu là một dân tộc từng sáng tạo ra Hangul – thứ chữ viết được ca ngợi là có tính khoa học “với các nguyên tắc ngữ âm vượt thời gian mà chưa dân tộc nào từng có” [2] giờ đây lại có ý định tranh quyền sáng tạo chữ Hán – một loại chữ bị chính người Trung Quốc phê phán và vất vả cải cách sửa đổi suốt cả trăm năm qua chưa xong!
Việt Nam và Nhật không tranh quyền tác giả chữ Hán
Việt Nam mượn dùng chữ Hán khoảng hơn 2000 năm, kể từ sau khi vua nước Nam Việt là Triệu Đà thôn tính nước ta (đầu thế kỷ II TCN). Tình hình chữ Hán ở ta cũng tương tự như ở Hàn Quốc: chữ Hán không thể ghi được tiếng Việt, bởi lẽ tiếng Việt thuộc nhóm Môn-Khmer trong ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic) – khác hẳn ngữ hệ Hán-Tạng của tiếng Hán, và có lượng ngữ âm giàu gấp chục lần tiếng Hán.
Để khắc phục khó khăn trên, từ thế kỷ XII người Việt Nam dựa trên cơ sở chữ Hán đọc âm Việt (tức chữ Nho) đã sáng tạo ra chữ Nôm ghi được tiếng mẹ đẻ. Nhưng hầu hết chính quyền phong kiến Việt Nam – trừ nhà Hồ và nhà Tây Sơn, do sùng bái chữ Hán nên vẫn dùng chữ Hán làm chữ viết chính thức; coi chữ Nôm là chữ của dân thường, là loại chữ “nôm ma mách qué”. Tuy vậy nhờ chữ Nôm mà nước ta từng có một nền văn học rực rỡ với các tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… hơn hẳn nền văn học chữ Hán của người Việt .
Nhưng chữ Nôm khó học hơn chữ Hán, vì thế không được sử dụng rộng rãi như chữ Hangul ở Hàn Quốc. Từ thế kỷ XVII dân ta may mắn được tiếp nhận chữ Quốc ngữ do các giáo sĩ châu Âu rất giỏi ngôn ngữ học làm ra trên nền tảng Latin hóa, hiện đại hoá chữ Nôm. Chữ Quốc ngữ ghi được 100% tiếng Việt, rất dễ học, dễ nhớ, dễ viết, dễ dùng, về cơ bản đạt được yêu cầu của chữ viết lý tưởng — nói thế nào viết thế ấy, viết thế nào đọc thế ấy. Vì thế từ cuối thế kỷ XIX dân ta hăng hái học và dùng chữ Quốc ngữ. Năm 1919, chữ Quốc ngữ được chính thức sử dụng, từ đó người Việt dứt điểm bỏ hẳn chữ Hán, thực hiện triệt để độc lập, “Thoát Hán” về ngôn ngữ, không còn phải ít nhiều dùng tới chữ Hán như người Nhật, người Triều/Hàn. Mặt khác, tuy người Việt xưa nay rất ưa chuộng chữ Hán và văn hóa Trung Hoa nhưng tổ tiên ta chưa bao giờ có ý định tranh giành quyền sáng tạo các thành tựu như chữ Hán hoặc các kinh điển như Kinh Dịch v.v...
Người Nhật dùng chữ Hán lâu hơn và với quy mô lớn hơn người Triều/Hàn, trong lịch sử chưa hề thấy họ nghi ngờ việc người Trung Hoa làm ra chữ Hán. Thời xưa người Nhật sử dụng gần như toàn bộ chữ Hán, nhiều nhất tới 50 nghìn chữ, do đó họ gặp rất nhiều khó khăn vì chẳng ai có thể nhớ được nhiều chữ như vậy. Thế kỷ VIII họ phát minh ra chữ Kana (gồm chữ Katakana và chữ Hiragana), thuộc loại chữ biểu âm ghi được tiếng thuần Nhật, dùng kết hợp với chữ Hán, nhờ thế giảm được đáng kể tổng số chữ Hán cần dùng. Hiện nay Nhà nước Nhật quy định chỉ được chính thức sử dụng khoảng 2000 chữ Hán. Dù sao, chữ viết của họ vẫn thuộc loại khó nhất thế giới. Thực ra họ có thể bỏ được chữ Hán, nhưng như vậy thì không thừa kế được di sản văn hoá tổ tiên để lại. Cuối thế kỷ XIX, trong quá trình chuyển ngữ các thuật ngữ của văn minh phương Tây, người Nhật đã có công lao rất lớn trong việc phát triển Hán ngữ hiện đại [3], tuy thế họ rất ít nói về thành tựu đó.
Ghi chú
[1] 韩国机构称将汉字视为外国文字违宪 sina.com.cn
[2] Nguyễn Thị Minh Chung: “Hangul và chữ viết của Hàn Quốc”, sách “Tiếng Việt 6” của nhóm Cánh Buồm, Nxb Tri thức, 2015.
[3] Nguyễn Hải Hoành: “Người Nhật phát triển Hán ngữ hiện đại”, nghiencuuquocte.org
7651 NHH 12/01/2023