Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Bạn đọc > Nhàn đàm > REPO & CHO VAY LÃI NẶNG

7688 Repurchase Agreement/Order

REPO & CHO VAY LÃI NẶNG

Thứ Hai 17, Tháng Tư 2023, bởi Lý Xuân Hải

I. REPO & REVERSE REPO

1. Hợp đồng Repo là gì?

Hợp đồng Repo xuất phát từ tiếng Anh: Repurchase Agreement/Order.

a. Cụ thể đó là hợp đồng giữa Bên Mua và Bên Bán tài sản có hiệu lực vào Ngày Giao Dịch với cam kết là Bên Bán sẽ có Quyền/ Nghĩa vụ Mua (Chuộc) và Bên Mua có Nghĩa vụ/Quyền bán lại tài sản đó với một mức giá cụ thể vào một ngày cụ thể (Ngày Đáo Hạn) trong tương lai.

  • Tức việc Bán/Mua là có thật để sau đó mới có phái sinh là Quyền/Nghĩa vụ Mua (Chuộc)/Bán lại từ hành vi Mua.

b. Hợp đồng Repo luôn có ít nhất hai bên: Bên Repo và bên Reverse-Repo.

  • Bên Bán tài sản vào Ngày Giao Dịch kèm Quyền/ Nghĩa vụ Mua (Chuộc) lại tài sản ấy trước hay vào Ngày Đáo hạn sẽ gọi Hợp đồng là Hợp đồng Repo: ta gọi là Bên Repo.
  • Bên Mua tài sản vào Ngày Giao Dịch thì nắm Nghĩa vụ/Quyền ngược lại là bán tài sản đó cho Bên Repo vào Ngày Đáo hạn sẽ gọi Hợp đồng là Hợp đồng Reverse- Repo: ta gọi là Bên Reverse-Repo hay ReRepo.
  • Repo nghĩa là cả Repo và ReRepo vì chúng là hai mặt của một bàn tay.

b. Hợp đồng Repo chia theo kỳ hạn có hai loại: có kỳ hạn và mở.

  • Có kỳ hạn bắt đầu hiệu lực từ Ngày Giao Dịch và kết thúc vào Ngày Đáo Hạn.
  • Kỳ hạn mở không có thời hạn nhất định và có thể bị một trong hai Bên chấm dứt vào bất kỳ ngày làm việc nào miễn là thông báo cho Bên kia theo một trình tự nhất định.

c. Trong hợp đồng Repo sẽ nói rõ:

  • giá Mua (Chuộc) lại/Bán lại vào Ngày Đáo Hạn
  • hoặc/và công thức hay cách tính giá Mua (Chuộc) lại/Bán lại nếu thực hiện trước Ngày Đáo Hạn.

d. Trong Hợp đồng Repo có sự chuyển giao quyền sở hữu thực sự tài sản từ Bên Repo sang Bên ReRepo vào Ngày Giao Dịch.

  • Bên ReRepo được quyền dùng tài sản để kinh doanh miễn sao sẵn sàng để giao dịch bán lại vào Ngày Đáo Hạn.

e. Tuy nhiên quyền, nghĩa vụ của các bên trong Hợp đồng Repo hơi khác so một hợp đồng mua bán thông thường.

  • Đó là Bên Repo tiếp tục được hưởng những lợi ích phát sinh từ tài sản, bao gồm việc tài sản lên giá và bao gồm lợi tức phát sinh. Trừ phi các bên có thỏa thuận khác.

f. Tôi luôn viết Quyền/Nghĩa vụ là có lý của nó. Bởi liên quan đến biến động giá của tài sản mà việc Mua/Bán thành Quyền hay Nghĩa vụ:

  • i. Vào Ngày Đáo Hạn giá tài sản xuống thấp hơn giá thỏa thuận: Bên Repo có Nghĩa vụ phải mua và bên ReRepo có Quyền bán với giá thỏa thuận.
  • ii. Vào Ngày Đáo Hạn giá tài sản lên cao hơn giá thỏa thuận: Bên Repo có Quyền được mua và bên ReRepo có Nghĩa vụ bán với giá thỏa thuận.
  • iii. Như vậy Quyền bên này đối ứng Nghĩa vụ bên kia và ngược lại tùy biến động giá tài sản. Nhưng các Quyền/Nghĩa vụ này chỉ tồn tại từ Ngày Giao Dịch đến hết Ngày Đáo Hạn, trừ phi các bên có thỏa thuận khác.

2. Vì sao có Repo? Tại sao bán rồi lại còn bày đặt quyền mua lại?

a. Hợp đồng Repo bản chất là giao dịch Bên Repo đi vay và Bên ReRepo cho vay - có hay không kỳ hạn - với TSĐB là tài sản trong hợp đồng và các thời điểm, điều kiện thực hiện nhận - chuyển giao Quyền và Sở hữu được quy định chặt chẽ khó đảo ngược.

  • Nói cách khác, Repo tương đương một khoản vay có tài sản thế chấp, trong đó tài sản thế chấp được sang tên cho bên Cho vay. Vào Ngày Đáo Hạn Bên Cho vay có Nghĩa vụ/Quyền bán lại cho Bên Vay để Bên Vay thực hiện Quyền/Nghĩa vụ Mua (Chuộc) lại.
  • Cả giá Bán/Mua ban đầu vào Ngày Giao Dịch và giá Mua/Bán lại vào Ngày Đáo Hạn thông thường đều được xác định trong hợp đồng. Chênh lệch giữa giá Mua (Chuộc) lại và giá Bán/Mua ban đầu của bên Repo chính là tiền lãi phát sinh từ khoản vay. Việc xác định giá Mua (Chuộc) lại căn cứ trên lãi suất Repo được các bên thỏa thuận với nhau.

Có thể nói đó là nghiệp vụ phái sinh từ nghiệp vụ cho vay có bảo đảm. Vì sao Repo được ưa chuộng?

Như đã nói Bản chất của giao dịch Repo là giao dịch Bên Repo đi vay và Bên ReRepo cho vay, là nghiệp vụ phái sinh từ nghiệp vụ cho vay có bảo đảm. Trong đó có sự chuyển giao quyền sở hữu tài sản từ Bên Repo sang Bên ReRepo. Điều này giúp làm đơn giản hoá việc thực hiện quyền nắm giữ, sở hữu tài sản của ReRepo/Cho vay nếu Bên Repo/Bên Vay không trả nợ đúng như cam kết (trước Ngày Đáo Hạn) mà không phải thông qua các vụ kiện tụng và thi hành án kéo dài dằng dặc, mệt mỏi và tốn kém. Lý do thứ hai là bởi các thủ tục cầm cố thế chấp, đăng ký giao dịch đảm bảo quá phức tạp.

Đây là tiện lợi lớn nhất, điều quan trọng bậc nhất làm công cụ Repo trở nên rất phổ biến ở các thị trường “Borrower Protected” chứ không phải “Lender Protected”.

b. Rủi ro:

  • Với Bên Repo: Bên ReRepo không giữ tài sản nguyên vẹn hay tìm cách không bán lại tài sản khi tài sản lên giá. Đây là rủi ro đối tác. Không thu xếp vốn kịp thời để Mua/Chuộc lại tài sản nên chịu mất đứt tài sản cũng là rủi ro Bên Repo đối mặt. Vay thế chấp cũng vậy thôi.
  • Với Bên ReRepo: Bên Repo từ chối thực hiện Nghĩa vụ Mua/Chuộc lại vì Tài sản xuống giá và không có tài sản bổ sung trước Ngày Đáo Hạn. Do vậy Bên ReRepo cần rất chuyên nghiệp, cẩn trọng trong định giá tài sản. Mua giá cao khi thị trường nóng sẽ lãnh đủ. Giá Bán/Mua ban đầu vào Ngày Giao Dịch, nếu Bên Repo không đặt cọc hay trả lãi trước, vì vậy thường thấp so giá thị trường để chống rủi ro cho Bên ReRepo vào Ngày Đáo Hạn khi Bên Repo không thực hiện Nghĩa vụ Mua (Chuộc) lại mà bán tài sản không còn đủ thu gốc và lãi được.
    Do vậy không ai Repo với giá thị trường cả. Nguyên tắc xác định giá Repo hay tỷ lệ cho vay nên thấp để tạo áp lực Bên Repo thu xếp tiền trả và an toàn cho Bên ReRepo. Đồng thời trong Hợp đồng Repo thường có điều khoản từ Ngày Giao Dịch đến Ngày Đáo Hạn Bên ReRepo được quyền yêu cầu Bên Repo bổ sung tài sản khi tài sản mất giá để trách thiệt hại cho Bên ReRepo. Không những vậy Hợp đồng Repo đôi khi có điều khoản truy đòi cho Bên ReRepo.
  • Bên thực hiện thủ tục chuyển nhượng, lưu ký là Bên Repo hay Bên ReRepo cũng sẽ tạo rủi ro. Ví dụ Repo cồ phiếu doanh nghiệp từ thành viên HĐQT của chính doanh nghiệp ấy… Đến khi thực hiện Mua (Chuộc) lại nếu họ không hợp tác hay HĐQT mâu thuẫn, thay đổi… có thể sẽ gây khó dễ cho việc chuyển nhượng. Do vậy đơn vị lưu ký, có quyền chuyển dịch, chứng nhận sở hữu các giao dịch Repo nên là bên thứ 3 khách quan, có kiến thức và đồng ý tham gia xác thực giao dịch.

c. Câu hỏi: nếu vào Ngày Đáo Hạn một trong hai Bên không thực hiện nghĩa vụ thì sao? Cụ thể bên Repo không Mua (Chuộc) lại thì sao?

Cái này do các bên thỏa thuận trong hợp đồng. Thông thường thỏa thuận sẽ là: sau Ngày Đáo Hạn thì Bên Repo không còn có Quyền Mua (Chuộc) lại nữa để rảnh tay và giải phóng bên ReRepo trong việc thanh lý tài sản thu nợ với tư cách chủ sở hữu. Hợp đồng Repo thành Hợp đồng Mua Bán thật.

Đây là điều không thể bàn cãi.

Chính lúc này các lợi ích của Repo phát huy tác dụng mạnh so nhận TSĐB thông thường.

3. Repo có hợp pháp không?

Hợp đồng Repo như vậy bản chất là có 2 cấu phần: Hoạt động cho vay có đảm bảo thông qua Quyền mua/chuộc lại phái sinh từ hợp đồng mua bán. Hai hoạt động/thoả thuận này có hợp pháp?

a. Luật Dân sự cho phép giao kết Hợp đồng cho vay có lãi:

“Mục 4

HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Điều 463. Hợp đồng vay tài sản

Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.”

b. Hiện Bộ Luật Dân sự đã có quy định và cho phép thực hiện giao dịch Bán Mua kèm Quyền chuộc lại như sau:

“Điều 454. Chuộc lại tài sản đã bán

1. Bên bán có thể thoả thuận với bên mua về quyền chuộc lại tài sản đã bán sau một thời hạn gọi là thời hạn chuộc lại.

Thời hạn chuộc lại tài sản do các bên thoả thuận; trường hợp không có thỏa thuận thì thời hạn chuộc lại không quá 01 năm đối với động sản và 05 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm giao tài sản, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Trong thời hạn này, bên bán có quyền chuộc lại bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên mua trong một thời gian hợp lý. Giá chuộc lại là giá thị trường tại thời điểm và địa điểm chuộc lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

2. Trong thời hạn chuộc lại, bên mua không được xác lập giao dịch chuyển quyền sở hữu tài sản cho chủ thể khác và phải chịu rủi ro đối với tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

c. Với 2 mục a. và b. ở trên tôi cho rằng các Hợp đồng Repo giữa các pháp nhân, thể nhân là hoàn toàn hợp pháp.

Trên thực tế cá nhân tôi đã chứng kiến, tham gia các giao dịch Repo suốt từ 2002.

Công cụ Repo được sử dụng rộng rãi trên thế giới và Việt Nam. Ở thị trường tiền tệ Repo là công cụ các NHTW dùng để bơm hút tiền và là một công cụ rất mạnh của chính sách tiền tệ để điều tiết lượng tiền trong lưu thông và tác động lên lãi suất, tỷ giá theo định hướng của Chính sách Tiền tệ. Thị trường Repo các NHTM với Ngân hàng Nhà nước phát triển sôi động ở Việt Nam suốt từ năm 2000 đến nay, doanh số từng rất lớn và có vai trò quan trọng trong tạo lập lãi suất và thanh khoản.

Thị trường Repo Mỹ được FED và các NHTW theo dõi và can thiệp (nếu cần) liên tục để duy trì thanh khoản.

Các Ngân hàng, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng Repo rất nhiều để thực hiện kinh doanh, sử dụng vốn, huy động vốn rất nhiều.

Đó là thực tế hôm nay.

II. LÃI SUẤT - LÃI NẶNG

1. Tuy Luật Dân sự nói rằng giá Repo do các bên thoả thuận nhưng vì Repo ẩn chứa hoạt động cho vay nên nếu quy ra lãi suất thì, theo tôi, phải tuân thủ pháp luật hiện hành quy định về lãi suất.

Luật Dân sự quy định về lãi suất tại Điều 468:

“Điều 468. Lãi suất

1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”

Như vậy Luật nói rõ lãi suất cho vay không được quá 20%/năm. Phần vượt không có hiệu lực. Đây là nói về các giao dịch dân sự.

Tôi không định bàn 20% đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp ở đây. Để dịp khác. Chỉ biết đây là Luật. Mà là Luật Dân sự, Luật cái… quan trọng bậc nhất và chỉ sau Hiến pháp.

Cần nói thêm là các NHTM chịu chi phối của Luật Ngân hàng và TCTD nên có thể có quy định khác về lãi suất.

2. Thế nào là cho vay nặng lãi? Trần lãi suất là 20%. Vượt 20% có bị truy tố hình sự? Theo tôi hiểu là không. Chỉ cho vay lãi nặng/nặng lãi và thu lợi bất chính trên 30 triệu mới bị truy tố hình sự theo Điều 201 Bộ Luật Hình sự.

Thế nào là cho vay nặng lãi/lãi nặng:
“Điều 201. Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ Luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

Nghị quyết số 01/2021/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán hướng dẫn áp dụng Điều 201 của Bộ luật hình sự và việc xét xử vụ án hình sự về tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự. Tại văn bản này theo quy định tại Điều 2, khoản 1 thì:

“1. “Cho vay lãi nặng” là trường hợp bên cho vay cho bên vay vay tiền với mức lãi suất gấp 05 lần trở lên mức lãi suất cao nhất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Trường hợp cho vay bằng tài sản khác (không phải là tiền) thì khi giải quyết phải quy đổi giá trị tài sản đó thành tiền tại thời điểm chuyển giao tài sản vay.”

Như vậy hoạt động cho vay lãi nặng/ nặng lãi đến mức bị xử lý hình sự là: lãi suất từ 100%/năm trở lên VÀ thu lợi bất chính phải từ 30 triệu đồng trở lên mới bị truy tố hình sự (chú ý: tôi hiểu có chữ VÀ). Nghĩa là cho vay 1000% nhưng thu lợi bất chính (không hiểu bất chính là toàn bộ lãi hay chỉ phần vượt trần? Nhờ các Luật sư giúp) chỉ 29.999.999 đồng hay cho vay lãi suất mới 99,99% thì thu hàng tỷ đồng lãi… cũng không bị truy tố hình sự vì tội cho vay lãi nặng.
Lãi suất trên 20% dưới 100% mới là vượt trần, chưa hình sự.

Hiểu vậy đúng không các luật sư?

Ai có hướng dẫn nào khác cho xin. Ai hiểu khác chia sẻ giúp.

III. PHIẾM BÀN

1.

Tóm lại: các giao dịch Repo và cho vay mượn là hợp pháp ở Việt Nam cho các loại hàng hoá cả Động sản lẫn Bất động sản, được Bộ Luật Dân sự cho phép trong các điều khoản quy định về:

a. Bán kèm Quyền/Nghĩa vụ Mua (Chuộc) lại. Việc Mua/Bán ở Ngày Giao Dịch là thật, có sự dịch chuyển sở hữu thật và cả đăng ký sở hữu nếu cần (Chính vì thật nên mới phát sinh Quyền Mua/Chuộc lại) chứ không hề “giả” tý nào.

b. Giá Mua Bán ban đầu và Mua (Chuộc)/ Bán lại hai bên giao dịch được tự quyết. Tuy nhiên để tránh vi phạm thì phần cho vay tức chênh lệch giá không được vượt 20%. Từ 100%/năm và thu lợi bất chính từ 30 triệu trở lên còn là bị xử lý hình sự đấy.

Phí là chuyện khác.

c. Thời hạn chuộc lại cũng do các bên thoả thuận. Các Bên nếu quên xác định hay chủ động chọn không kỳ hạn thì Luật còn xác định hộ là tối đa 1 năm với động sản và 5 năm với bất động sản.

2.

Gần đây có giao dịch mua bán cổ phiếu công ty Minh Thành nắm giữ dự án (không phải mua bán dự án) giữa Tân Hiệp Phát và Công ty Kim Oanh được nhiều người gọi là “Hợp đồng giả cách”, “Mượn Hợp đồng này che giấu thoả thuận khác” hay “Hợp đồng giả như chuyển nhượng”. Và dường như bất hợp pháp.

Trong khi một số thông tin khác bảo đó là Hợp đồng Mua bán kèm Quyền Mua/Chuộc lại hay Repo… có chênh lệch giá quy ra lãi suất năm là 36%.

Không có trong tay hồ sơ nên tôi không biết đó có phải là Hợp đồng Repo không.

Nếu đó là Hợp đồng Repo mà lại được đánh giá là “Hợp đồng giả cách”, “Mượn Hợp đồng này che giấu thoả thuận khác” hay “Hợp đồng giả như chuyển nhượng” thì sẽ lớn chuyện: Bởi trong Luật không có quy định về các loại Hợp đồng có tên ở trên nên hoặc nó phải được áp tên gọi đúng luật (Ví dụ Hợp đồng Mua Bán kèm quyền Mua (Chuộc) lại - gọi tắt Repo) hoặc nó là sai luật.
Chờ xem vậy.

3.

a. Để tránh lan man tôi xác định phạm vi trao đổi ở đây: chỉ bàn về bản chất và tính hợp pháp của Hợp đồng Repo.

Nhắc đến Tân Hiệp Phát chỉ vì các Hợp đồng liên quan chủ công ty này hay được nhắc đến và các tên gọi “Hợp đồng giả cách”, “Mượn Hợp đồng này che giấu thoả thuận khác” hay “Hợp đồng giả như chuyển nhượng” là giành cho các giao dịch ấy.

Hình thức Repo BĐS và CP đã phổ biến ở Việt Nam đến mức tôi có cảm giác, đoán mò, rằng ông Thanh sử dụng hình thức này để cho công ty Kim Oanh vay. Chỉ đoán thế. Không khẳng định. Và nó chỉ mang tính tham chiếu. Nếu hợp đồng giữa họ không phải là Repo cũng không thay đổi quan điểm về Repo ở bài viết này.

Nếu ông Thanh đúng là dùng hợp đồng Repo hay Mua Bán kèm quyền Mua (Chuộc) lại mà bị tuyên bố là “Hợp đồng giả cách”, “Mượn Hợp đồng này che giấu thoả thuận khác” hay “Hợp đồng giả như chuyển nhượng”, là trái pháp luật… thì thị trường Repo đang giao dịch hàng ngày sẽ chịu rủi ro vô cùng lớn. Và chúng ta cần biết sớm để cảnh tỉnh, đánh giá lại điều mình vẫn làm xem có gì sai sót… tránh mất trâu mới lo làm chuồng.

Cũng cần nói rõ các kết luận về tính hợp pháp của Repo là ý kiến của cá nhân tôi, dễ mang tính suy đoán và không có đầy đủ kiến thức pháp luật. Tôi nêu ra để các bạn FB, nhất là các luật sư, có ý kiến đánh giá giúp. Và nếu chỉ ra chỗ sai của tôi hợp lý thì tôi và nhiều bạn nhờ đó biết mà tránh sai lầm.

Quan trọng nữa là kết luận ấy mới dựa trên Luật Dân sự, Luật Hình sự và Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán. Không biết có có văn bản nào khác của cơ quan nào khác bạn hành không. Một văn bản cấp Phòng hay cấp Cục, có khi đóng dấu Mật, cũng có thể coi là ý kiến giám định tư pháp giải thích luật ở lĩnh vực nào đó liên quan… mà nói khác thì chịu thua thôi… tại số rồi.

b. Tôi không có bất cứ thông tin trực tiếp chính xác nào về Tân Hiệp Phát, về chủ công ty là ông Thanh và gia đình… không có thông tin trực tiếp, đầy đủ về giao dịch giữa ông Thanh và Công ty Kim Oanh… ngoài từ báo chí và MXH. Giao dịch ấy mang ra chỉ để tham chiếu.

Do vậy ở đây không có ý định đánh giá: Giao dịch ấy đúng Luật không; Việc ông Thanh và người thân bị bắt giữ đúng hay sai; Chiếm đoạt hay không chiếm đoạt tài sản; Chiếm đoạt của ai; Hợp đồng ấy là hợp đồng gì. Để phán phải đọc hồ sơ tố tụng và kết luận điều tra. Và hơn cả là phải có kiến thức pháp luật. Tôi không phải luật sư thiên tài mà chỉ đọc báo kết tội, lượng hình được luôn như một vị quyền chả cao chức chả trọng chỉ đọc thông tin MXH và mấy bài báo đã kết luận: “Chúng nó tội to thế sao án nhẹ thế!”

c. Tôi cũng không bàn yếu tố cảm xúc hay đạo đức của bất cứ ai ờ đây. Chỉ bàn về Luật.

Mong các bạn có kiến thức, ý kiến, quan điểm về Luật liên quan cùng chia sẻ./.


Xem online : TẢN MẠN T3


7688 Lý Xuân Hải 14/04/2023