Trang nhà > Khoa học > Ngôn ngữ > Tiếng Việt có bắt nguồn từ chữ Hán hay không?
Tiếng Việt có bắt nguồn từ chữ Hán hay không?
Thứ Hai 31, Tháng Bảy 2023, bởi
Trong cuốn “Lịch sử ngôn ngữ người Việt” của GS Trần Trí Dõi, tại chương Hai “Những thảo luận về vấn đề nguồn gốc ngôn ngữ người Việt”, tác giả có nêu vấn đề cha cố J.S. Theurel năm 1877 từng đưa ra nhận xét “tiếng Việt phần lớn bắt nguồn từ chữ Hán”. Quan điểm này của Theurel dựa trên chứng cớ trong tiếng Việt có rất nhiều từ vựng thuộc gốc Hán và nhất là có một số hiện tượng ngữ pháp rất giống tiếng Hán.
Nhận định của Theurel dễ dàng được một số người ủng hộ, hình thành khuynh hướng cho rằng ngôn ngữ Việt Nam có nguồn gốc từ tiếng Hán, suy ra chủng tộc Việt Nam có nguồn gốc ở Trung Quốc. Vì thế đây là một vấn đề có liên quan tới lịch sử dân tộc ta, rất cần được làm rõ. Bài này sẽ bàn qua về quan điểm của Theurel và một số quan điểm khác.
Ai cũng có thể nhận thấy tiếng Việt có rất nhiều từ gốc Hán, có người nói 60%, có người nói 70% từ vựng tiếng Việt là từ Hán-Việt. Cũng có người nêu ra tỷ lệ dưới 40%. Theo chúng tôi, ta chẳng cần tranh cãi về tỷ lệ này, vì dường như không thể hy vọng sẽ thống kê được con số chính xác. Hiện nay ngày càng xuất hiện nhiều từ ngữ tuỳ ý lai ghép từ Hán-Việt với từ thuần Việt hoặc ghép từ Hán-Việt với nhau hình thành từ mới, mất hẳn gốc Hán. Ví dụ “cận nghèo”, “tái đàn”, “khởi tranh” v.v… Trong tình hình biến động như thế thì con số % ấy chẳng có ý nghĩa gì.
Bởi vậy, chúng tôi tán thành cách đặt vấn đề của GS Trần Trí Dõi: xem xét tính chất của các từ Hán-Việt, xác định mối quan hệ của nó với nguồn gốc tiếng Việt. Khi nói về nguồn gốc tiếng Việt, dĩ nhiên trước hết phải xét các từ thuần Việt, ví dụ cha mẹ, chân tay, ăn, uống,ngủ, nghỉ, v.v... là những từ xuất hiện từ lúc chủng tộc Việt ra đời và hầu như suốt đời không đổi. Rõ ràng, từ thuần Việt là những từ gắn với nguồn gốc dân tộc, thể hiện tính cội nguồn của ngôn ngữ, được gọi là lớp “từ cơ bản”.
Như GS Trần chứng minh, những từ gốc Hán tương ứng giữa tiếng Việt và tiếng Hán (tức từ Hán-Việt) chủ yếu thuộc lớp từ có tính chất trừu tượng, tính học thuật, thể hiện khái niệm, tư tưởng – nói chung là từ có “tính văn hoá”, chỉ xuất hiện khi xã hội đã phát triển tới thời kỳ có văn hoá, văn minh, – gọi là “từ văn hoá”, ví dụ: hoàng đế, quan binh, quận huyện. Lớp “từ văn hoá” này khác hẳn lớp “từ cơ bản” nói trên.
Rõ ràng, từ Hán-Việt thuộc loại “từ văn hoá”, không liên quan tới cội nguồn tiếng Việt, ra đời sau tiếng Việt hàng nghìn năm. Nó chỉ xuất hiện trong tiếng Việt khi dân tộc ta tiếp xúc với nền văn minh, văn hoá Trung Hoa. Cụ thể là sau khi tổ tiên ta bắt đầu học chữ Hán. Bởi vậy, không thể vì thấy tiếng Việt dùng nhiều từ Hán-Việt mà cho rằng tiếng Việt có nguồn gốc tiếng Hán.
Để xác định nguồn gốc ngôn ngữ, nhất thiết phải dựa vào các “từ cơ bản”, tức từ thuần Việt, ra đời cùng với tiếng Việt, mà không dựa vào các “từ văn hoá”. Trong đời sống hàng ngày, người ta chủ yếu dùng các từ thuần Việt, nhưng khi nói về các vấn đề thời sự chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật v.v… thì từ Hán-Việt chiếm tỷ lệ cực cao. Ví dụ trong Hiến pháp Việt Nam, tỷ lệ này lên tới 90%.
Tại Trung Quốc cũng có chuyện từ cuối thế kỷ XIX, Hán ngữ sử dụng rất nhiều từ vựng chữ Hán hiện đại do người Nhật sáng tạo khi phiên dịch từ ngữ phương Tây sang chữ Kanji. Ví dụ các từ chủ nghĩa, tư bản, cộng sản, chứng khoán, bộ đội, v.v… Có học giả Trung Quốc ước tính từ ngữ chữ Hán ấy chiếm khoảng 70% tổng số từ ngữ hiện dùng trong Hán ngữ; “nếu không có những từ du nhập từ Nhật thì người Trung Quốc không biết trò chuyện với nhau như thế nào” (xem Nguyễn Hải Hoành: NGƯỜI NHẬT PHÁT TRIỂN HÁN NGỮ HIỆN ĐẠI).
Những từ Hán-Nhật ấy đều thuộc lớp “từ văn hoá”, vì thế dù chiếm tới 70% số từ vựng Hán ngữ nhưng không thể nói Hán ngữ có nguồn gốc tiếng Nhật. Ai cũng biết Nhật ngữ hiện dùng hơn 2000 chữ Hán. Rõ ràng những từ chữ Hán do người Nhật sáng tạo ấy là từ người Trung Quốc vay mượn từ tiếng Nhật. Nhưng vì dùng đã quen, đã lâu nên chính họ cũng ít biết về gốc gác Nhật của chúng.
Xét về thời gian, nếu nói từ Hán-Việt có nguồn gốc từ chữ Hán, thì nó phải xuất hiện không lâu sau khi chủng tộc Việt ra đời (khoảng 3000-4000 năm trước). Trên thực tế, từ Hán-Việt ra đời khá muộn, vào thời điểm sau khi người Việt tiếp nhận chữ Hán (hơn 2000 năm trước), khi chữ Hán đã có tuổi đời hơn 1000 năm. Các từ ấy đều là “từ văn hoá”, đến từ nền văn minh Trung Hoa đương thời. Điều đó chứng tỏ từ Hán-Việt chỉ là những từ vựng gốc Hán mà tiếng Việt vay mượn để làm giàu nguồn từ ngữ của mình, không liên quan tới nguồn gốc ra đời của tiếng Việt.
Ngôn ngữ học xếp các ngôn ngữ cùng nguồn gốc vào cùng một ngữ hệ (language family). Ngôn ngữ thuộc ngữ hệ nào, điều đó rất quan trọng, bởi lẽ chung nguồn gốc ngôn ngữ nghĩa là có chung nguồn gốc chủng tộc. Các dân tộc khác ngữ hệ thì không cùng nguồn gốc huyết thống.
Lập luận của Theurel dẫn đến nhận định tiếng Việt có nguồn gốc thuộc về nhóm tiếng Hán (Sinitic) của ngữ hệ Hán-Tạng (Sino-Tibetan), là ngữ hệ của tiếng Hán và các tộc Bách Việt. Suy ra chủng tộc Việt Nam cùng nguồn gốc với các tộc Hán và Bách Việt.
Trong sách trên, GS Trần Trí Dõi đã chứng minh Lập luận của Theurel coi tiếng Việt là một ngôn ngữ có nguồn gốc từ chữ Hán là hoàn toàn không đủ cơ sở khoa học. Tuy thế, vẫn có người chỉ vì thấy tiếng Việt có quá nhiều từ Hán-Việt mà mơ hồ tin theo Theurel.
Giới ngôn ngữ học Việt Nam hiện nay cho rằng tiếng Việt xét về nguồn gốc là ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), nhánh Môn-Khmer, nhóm tiếng Việt (Vietic, Việt-Mường). Để đi đến nhận định này, các nhà ngôn ngữ học đã nghiên cứu, tranh luận suốt 1,5 thế kỷ qua.
Sách “Lịch sử ngôn ngữ người Việt” của GS Trần Trí Dõi cho biết: Năm 1912, H. Maspero nhà nghiên cứu người Pháp ở Viện Viễn đông Bác cổ đề xuất quan điểm cho rằng tiếng Việt có nguồn gốc nhóm tiếng Thái. Căn cứ vào những chứng cớ mới rất chi tiết và có tính hệ thống chủ yếu về ngữ âm, dựa trên lập luận chặt chẽ, Maspéro đưa ra những kết luận thuyết phục được giới ngôn ngữ học đương thời, kể cả một số học giả nổi tiếng từng có quan điểm khác (ví dụ Vương Lực). Quan điểm của Maspéro ngự trị giới ngôn ngữ học trong suốt nửa thế kỷ sau đó.
Năm 1953 rồi năm 1966, một nhà ngôn ngữ học người Pháp rất nổi tiếng là A.G. Haudricourt công bố hai bài báo ý kiến phản bác quan điểm tiếng Việt có nguồn gốc nhóm tiếng Thái của Maspéro. A.G. Haudricourt cho rằng ngôn ngữ Việt có nguồn gốc Môn-Khmer, thuộc ngữ hệ Nam Á. Lập luận của Haudricourt quá ư vững chắc và có nhiều chứng minh đầy sức thuyết phục, khiến cho nhiều nhà ngôn ngữ học Việt Nam và nước ngoài tán thành.
Tóm lại, tiếng Việt và tiếng Hán không cùng một ngữ hệ — đó là một sự thực. Suy ra chủng tộc Việt Nam không cùng nguồn gốc với các tộc Hán và Bách Việt. Thời xưa, người Bách Việt di cư sang Việt Nam rất nhiều, để lại một số từ ngữ của họ, chủ yếu là tiếng Quảng Đông.
GS Trần Trí Dõi viết: Khi lịch sử ngôn ngữ đã không cùng một nguồn gốc như vậy thì văn hoá Việt Nam và văn hoá Hán cũng không thể có chung một nguồn gốc. Tìm nguồn gốc tiếng Việt ở chữ viết của người Trung Quốc là một việc vô bổ. Có nhà ngôn ngữ học Trung Quốc nói mối quan hệ giữa Việt ngữ với Hán ngữ là quan hệ tiếp xúc chứ không phải quan hệ học tập.
Ở đây chúng tôi muốn nói thêm rằng người Việt Nam vay mượn từ vựng của tiếng Hán theo một phương thức rất chủ động, sáng tạo, khác người. Thông thường người ta mượn tiếng nước ngoài theo cách đại để như ta hiện nay mượn từ “fan”, từ “viu (view)”, “sô (shaw)” v.v…của tiếng Anh. Nhưng khi mượn từ của tiếng Hán thì ta trước hết phiên âm chữ Hán sang tiếng Việt: mỗi chữ Hán được phiên âm thành một từ Hán-Việt, có âm đọc mô phỏng âm Hán của chữ Hán đó, toàn bộ chữ Hán đều phiên âm sang tiếng Việt.
Kết quả của sự chuyển đổi ngữ âm (phiên âm) ấy làm cho kho tàng chữ Hán biến thành kho tàng từ Hán-Việt, người Việt cứ lấy từ Hán-Việt ra, chắp chữ mà dùng. (Thậm chí người không biết chữ Hán cũng có thể chắp các từ Hán-Việt mà dùng). Ví dụ chữ Hán 歲 [sui] phiên âm được “tuế”, chữ 月[yue] phiên âm được “nguyệt”, chắp hai chữ được 歲月đọc “tuế nguyệt”, là một từ Hán-Việt có nghĩa là “thời gian, năm tháng”. Người Việt không mượn âm [sui yue] mà mượn âm [tuế nguyệt], tức mượn từ Hán-Việt (từ Hán đã phiên âm). Cách mượn dùng ấy làm tăng mỹ cảm và tính “văn hoá” của từ vựng. Ví dụ trong câu “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, nước còn chau mặt …” từ “tuế nguyệt” làm cho câu thơ trở nên có tính quý phái, có âm điệu êm tai. Nếu thay bằng âm [sui yue] thì câu thơ hỏng. Không thể vì “tuế nguyệt” có gốc chữ Hán mà nói tiếng Việt có nguồn gốc Hán ngữ.
Nếu nói từ Việt gốc Hán bắt nguồn từ chữ Hán, do chữ Hán đẻ ra thì rõ ràng từ gốc Hán ấy phải phát âm bằng tiếng Hán. Nhưng từ vựng gốc Hán ta dùng đều phát âm bằng tiếng Việt, là âm đọc chữ Nho. Bởi vậy, từ gốc Hán ta dùng không bắt nguồn từ chữ Hán mà bắt nguồn từ chữ Nho.
Mặt khác, âm đọc từ Hán-Việt xưa nay không hề thay đổi, trong khi âm đọc từ Hán ngữ thay đổi rất nhiều trong 3300 năm qua. Rốt cuộc từ Hán-Việt bảo lưu được những từ Hán cổ mà thời xưa nó từng mô phỏng. Thời nhà Triệu, người Trung Quốc sang Việt Nam phần đông là người Quảng Đông. Vì thế có nhiều từ tiếng Quảng Đông được từ Hán-Việt mô phỏng, ví dụ “khách sạn”, “đô đốc”, “sinh viên” (Hán ngữ ngày nay không dùng nữa). Nhà ngôn ngữ học Trung Quốc Vương Lực từng sang Hà Nội mấy năm nghiên cứu vấn đề từ Hán cổ trong tiếng Việt.
Nguyễn Hải Hoành
(BTV: NCC 31/7/2023)