Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Lịch sử > Trung đại > Từ anh khóa, thầy đồ, đến ông quan (1)

Từ anh khóa, thầy đồ, đến ông quan (1)

Thứ Bảy 8, Tháng Chín 2007, bởi Cong_Chi_Nguyen

Tiêu đề ‘Từ Anh Khóa, Thầy Đồ, Đến Ông Quan’ là câu tóm lược tiến trình sự nghiệp của người học trò theo học chữ Nho thời phong kiến.

Thời đó, ở nước ta, chữ Nho là văn tự chính thức của tất cả các hoạt động trong xã hội, từ lãnh vực hành chánh, giáo dục, luật pháp, truyền thông, cho đến tôn giáo, văn học, kiến trúc, mỹ thuật và giao tiếp. Chữ Nho, còn gọi là Hán tự, là chữ Hán, là chữ An Nam, là chữ mà mọi người phải dùng tới. Trên các giấy tờ giao ước viết bằng chữ Nho, các bên liên quan cho dù không biết chữ cũng phải lăn tay điểm chỉ vào. Vì thế, thông thạo chữ Nho dù chỉ mới ở mức độ biết đọc biết viết đã là chuyện tốt. Huống hồ thông thạo chữ Nho tới mức độ mở miệng ra là ngọc nhả châu phun, vung tay lên là rồng bay phượng múa, thì quả thật là tuyệt vời, đương nhiên được mọi người chung quanh quí trọng. Người trong nước, ai ai cũng thi đua nhau cho con em theo học chữ Nho. Học để thông thạo chữ nghĩa, để thi đậu đi làm quan, trước là nở mặt nở mày, rạng rỡ tông môn, sau là giúp vua an dân trị quốc.

I. Việc truyền bá chữ Nho vào Giao Châu

Vai trò của Sĩ Nhiếp

Chữ Nho truyền vào nước ta từ đời Hán. Người có công lớn trong việc truyền bá chữ Nho tại Giao Châu là Sĩ Nhiếp, nên được đời sau tôn là Nam Giao Học Tổ, được nhà Trần phong làm phúc thần, tước vị là Gia Ứng Thiện Cảm Linh Vũ Đại Vương. Sĩ Nhiếp là người Thương Ngô, tổ 6 đời gốc người nước Lỗ (Sơn Đông), cha là Sĩ Tứ làm Thái Thú Nhật Nam nên lúc nhỏ theo cha ở thành Tây Quyển (phía bắc Huế), rồi sang Kinh sư (Lạc Dương) du học, được cử là Hiếu Liêm, trước bổ làm chức quan Lệnh Hàm Dương, rồi đến đời Hán Hiến Đế chuyển làm Thái Thú Giao Chỉ. Gặp lúc thiên hạ đại loạn, Lưu Biểu ở Kinh Châu sai Lại Cung sang kiêm tính Giao Châu. Sĩ Nhiếp bèn cùng Thái thú Thương Ngô là Ngô Cự đánh đuổi Lại Cung, nhân đó vua Hán cho Sĩ Nhiếp làm An Viễn Tướng quân, thống lĩnh binh mã 7 quận, tước phong Long Độ Đình Hầu. Sĩ Nhiếp chia các em đi làm Thái Thú các quận Nam Hải, Hợp Phố, Cửu Chân, còn tự mình kiêm lĩnh hai quận Thương Ngô và Giao Chỉ. Khi nước Tàu chia ba, Sĩ Nhiếp theo về Đông Ngô. Ngô chủ Tôn Quyền cử Bộ Chất làm Thứ Sử Giao Châu, nhưng Sĩ Nhiếp không cho Bộ Chất đến nơi trấn nhậm, buộc lòng nhà Ngô phải phong cho Sĩ Nhiếp làm Long Biên Hầu, Đệ nhất Thiên Tướng Quân, lĩnh Giao Châu Thái Thú (1). Sĩ Nhiếp thọ 90 tuổi, cai trị Giao Châu trong 48 năm, đã gia công mở mang việc học chữ Nho và truyền bá nếp sống phương bắc, làm cho vùng Lĩnh Nam Hán hóa đậm đà. Sau khi Sĩ Nhiếp chết, con là Sĩ Huy lên thay. Nhà Ngô sai Lữ Đại sang đánh, Sĩ Huy xin hàng. Ngô chủ Tôn Hạo bèn chia Giao Châu làm hai là Giao Châu và Quảng Châu.

Tiến cử và Thi cử

Các triều đại Tấn, Tống (Nam Bắc triều), Tề, Lương, Trần vẫn theo lề lối tuyển dụng cũ của nhà Hán, tức là giao cho các quan địa phương tiến cử người hiền tài ra làm việc, chia làm các hạng hiếu liêm (cử nhân) và mậu tài (tú tài). Đến đời Tùy, vua Tùy Dạng Đế bắt đầu mở khoa thi để tuyển chọn người ra làm quan. Nhưng phải đến đời Đường việc thi cử mới có quy củ.

Người trúng tuyển được chia làm ba loại: sinh đồ, cống cử, và chế cử. Sinh đồ là các học sinh đã tốt nghiệp các trường ở Kinh sư hay châu quận, nay trúng tuyển kỳ thi sát hạch ở Tòa Thượng Thư tại tỉnh. Cống cử là những người không theo học ở các Học (quán), các (học) Hiệu, chỉ thi đỗ sát hạch ở châu quận, nay trúng tuyển kỳ thi tại Tòa Thượng Thư. Cống cử còn được gọi là hương cống. Chế cử là những người trúng tuyển kỳ thi đặc biệt do vua đích thân ra đề bài.

Từ cuối đời Đường sang đời Tống, danh xưng chế cử được đổi thành tiến sĩ, chia làm tiến sĩ cập đệ và tiến sĩ xuất thân (2). Việc học chữ Nho lúc này tại Giao Châu rất phổ cập. Sĩ tử Giao Châu gốc bản địa thành đạt mỗi ngày một nhiều nên năm 845, vua Đường hạn chế số người Nam thi khoa Tiến sĩ không được quá 8 người, khoa Minh kinh không đuợc quá 10 người (3).

Quá trình hình thành tiếng Hán Việt

Nhà Đường dấy nghiệp từ Thái Nguyên, đóng đô ở Trường An, quan lại bổ nhiệm sang Giao Châu phần lớn là người Quan Nội (Thiểm Tây), nên người Giao Châu được học chữ Hán phát âm theo phương ngữ Trường An. Từ nhà Tống trở đi, Giao Châu độc lập, và vẫn dùng chữ Nho làm văn tự chính thức. Nhưng người Việt không còn học chữ Nho trực tiếp với người Tàu nữa. Bởi vậy, tại Trung Quốc, trải qua các triều Tống, Nguyên, Minh, Thanh, trung tâm chính trị và văn hóa của Trung Quốc chuyển dần về phía đông rồi lên phía bắc, đời sống văn hóa xã hội nhiều mặt mang đậm dấu ấn Mông Cổ và Mãn Châu, nên nghĩa chữ và tiếng nói đổi khác đi, trong lúc đó, người Việt vẫn tiếp tục học chữ Nho với lối phát âm theo phương ngữ Trường An đời Đường. Đó là quá trình hình thành tiếng Hán Việt. Với tiếng Hán Việt, người Việt và người Tàu có thể bút đàm với nhau, nhưng người Việt đọc lên hoặc nói ra thì người Tàu không hiểu được. Cũng cùng một lý do này mà các bài thơ Đường đọc theo âm Hán Việt nghe rất xuôi tai, còn đọc theo âm quan thoại nhiều khi lại khổ độc, vi phạm luật bằng trắc.

II. Việc thi cử trong thời kỳ trước nhà Nguyễn

Các triều đại buổi đầu của Giao Châu tự chủ Đinh, Lê, Lý, không tổ chức việc học việc thi để tuyển dụng người làm việc nhà nước, mà sở cậy giới tăng lữ sử dụng chữ Nho làm văn tự chính thức trong việc cai trị dân chúng và giao thiệp với người Tàu. Mãi đến đời Lý Thánh Tông mới dựng Văn miếu vào năm 1070, và đời Lý Nhân Tông mới mở khoa thi Nho học Tam trường vào năm 1075 để chọn người Minh kinh bác học, và xây Quốc tử giám vào năm 1076 để con em các hoàng thân quốc thích đến học tập. Sau đó, mỗi khi cần người, nhà Lý mới mở khoa thi, như năm 1086 để kén người vào Hàn lâm viện, năm 1165 thi Thái học sinh để tuyển người ra làm quan ở các trấn, năm 1185 và năm 1193 để kén người vào Thị học (hầu vua học), và năm 1195 thi Tam giáo cho xuất thân (ra làm quan). Ngoài ra còn có các kỳ thi Hình luật, Thư toán để kén lại điển (2,4).

Đời Trần và đời Hồ, việc học hành và thi cử đã tương đối được tổ chức hoàn bị. Buổi đầu chỉ ở Kinh sư có Quốc học viện. Đến cuối đời Trần, Lê Quý Ly tổ chức ở các lộ, châu, phủ, các nhà Học, nhà Hiệu do các Đốc học và Giáo thụ trông nom. Năm 1232, đời Trần Thái Tông, mở khoa thi Thái Học sinh, người đỗ chia ra Tam giáp: đệ nhất giáp, đệ nhị giáp, và đệ tam giáp. Năm 1247 lấy 3 người đỗ đệ nhất giáp làm Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Năm 1256 mở khoa thi Thái Học sinh, phân biệt Kinh (châu thổ sông Hồng) và Trại (Thanh Nghệ). Đến khoa thi năm 1274 đời Trần Thánh Tông thì việc phân biệt Kinh Trại này được bãi bỏ. Năm 1304 đời Trần Anh Tông, định phép thi Thái Học sinh 4 trường: trường 1 thi Ám tả, Kinh nghĩa, trường 2 thi Thi Phú, trường 3 thi Chiếu, Chế, Biểu, trường 4 thi Đối sách. Mạc Đỉnh Chi đỗ Trạng nguyên khoa này. Tam khôi được đưa ra Long môn và Phụng thành dạo chơi, sau đó, Trạng nguyên được bổ chức Thái Học sinh, Bảng nhãn chức Chi hậu bổ thư, Thám hoa chức Hiệu thư.

Năm 1396 đời Trần Thuận Tông, Tể Tướng Lê Quý Ly định phép thi Cử nhân 4 trường: trường 1 thi Kinh nghĩa, trường 2 thi Thi Phú, trường 3 thi Chiếu, Chế, Biểu, trường 4 thi Sách vấn, hỏi về Kinh, Sử và Thời vụ. Kể từ đây, thi lấy Cử nhân gọi là thi Hương, thi lấy Thái Học sinh gọi là thi Hội, trúng tuyển thi Hương rồi mới đuợc thi Hội, trúng tuyển thi Hội mới được vào Ngự thí, tức là thi Đình. Thi Đình chỉ làm một bài Sách vấn để sắp hạng Tam khôi, Tam giáp. Lại định lệ năm trước thi Hương, năm sau thi Hội và thi Đình. Năm 1400 đời Hồ Quý Ly, mở khoa thi Thái Học sinh. Nguyễn Trãi đỗ khoa này. Năm 1405, đời Hồ Hán Thương, mở khoa thi Cử nhân 5 trường, có thêm 2 môn thi Viết và Toán ở trường 5.

Triều Hậu Lê, buổi đầu đại định, việc trị an bề bộn nên thi cử còn giản lược. Năm 1429, đời Lê Thái Tổ, mở khoa thi Hoành từ, cho sĩ dân và quan viên từ tứ phẩm trở xuống được ứng thí để kén người, tùy tài bổ dụng. Trong khoa này, Thừa chỉ Nguyễn Trãi được cử làm Giám thí, dưới quyền Thượng thư Lê Văn Linh giữ chức Đề điệu (5). Năm 1434, đời Lê Thái Tông, định phép thi 4 trường, lại định lệ 6 năm một khoa, năm trước thi Hương, năm sau thi Hội, người trúng tuyển gọi là Tiến sĩ xuất thân. Năm 1442 bắt đầu dựng bia đá khắc tên Tiến sĩ. Năm 1448, những người trúng tuyển Đình thí được chia làm Cập đệ, Chánh bảng và Phụ bảng. Năm 1462 đời Lê Thánh Tông, đặt ra lệ Bảo kết Hương thí, ai đi thi phải đến bản quán đăng ký, danh sách trúng tuyển được chuyển về Lễ nghi viện duyệt xét, chỉ những ai được bản quán bảo kết thực sự đức hạnh mới được cho dự Hội thí. Năm 1466, định lại 3 năm một khoa, ban mũ áo, đãi ăn yến, cho vinh quy bái tổ. Năm 1475, vẫn đời Lê Thánh Tông, thi Hương đổi gọi là thi Cống sĩ, Cử nhân gọi là Hương cống, Tú tài gọi là sinh đồ. Năm 1484, Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa cải gọi là Tiến sĩ Cập đệ, Chánh bảng là Tiến sĩ Xuất thân, Phụ bảng là Đồng Tiến sĩ Xuất thân.

Triều Mạc rất trọng khoa cử. Nói chung việc thi cử vẫn theo lệ cũ nhà Lê. Chỉ duy năm 1565, đời Mạc Mậu Hợp, kỳ đệ tứ khoa Tiến sĩ xẩy ra chuyện có bài Phú làm bằng chữ nôm. Nguyễn Hiển Tích vào trường 4 không làm được bài, cao hứng xoay qua viết bài phú Lưu Hầu bằng quốc âm rất hay, và vẫn được lấy đỗ (6). Cũng dưới triều Mạc, Dương Văn An là người Thuận Hóa đầu tiên đỗ Tiến sĩ. Lại nữa, khoảng đầu thế kỷ 17, lúc nhà Mạc đã chạy lên Cao Bằng, đời Mạc Kính Cung, có Nguyễn Thị Du cải nam trang thi đỗ Trạng nguyên (7).

Đời Lê Trung Hưng, buổi đầu chỉ mở các Chế khoa tại Thanh Hoa song song với các khoa Tiến sĩ của nhà Mạc ở Đông Kinh. Sau khi diệt xong nhà Mạc thì việc học hành thi cử ở Đàng Ngoài lại được tổ chức theo lệ cũ. Về sau, từ đời Bảo Thái trở đi, đặt phép Huyện khảo để lấy Thứ thông, chuyển lên hai Ty Thừa Hiến duyệt khảo lại để lấy Sảo thông, sĩ tử phải nộp 5 tiền để trả phí tổn trường thi, gọi là tiền minh kinh. Sảo thông đỗ tam trường thì gọi là Sảo thông Sinh đồ, đỗ tứ trường thì gọi là Nhất cử Hương cống. Đến năm 1750, đời Lê Hiển Tông, Thự phủ Đỗ Thế Giai đặt lệ nộp 3 quan tiền, gọi là tiền thông kinh, thì được thi Hương không phải khảo hạch, khiến nẩy sinh tệ đoan ‘sinh đồ ba quan’, lái buôn không biết chữ cũng nộp tiền rồi thuê người đi thi hộ, trẻ con 10 tuổi cũng thi đỗ sinh đồ.

Ở Đàng Trong, sau khi Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ Thuận Hóa năm 1558, qui chế học hành thi cử thay đổi khác hẳn Đàng Ngoài. Đến năm 1775, chúa Trịnh đưa quân đánh chiếm Phú Xuân và năm sau ra lệnh cho Phạm Ngô Cầu tổ chức thi Hương tại Thuận Hóa theo qui chế khoa cử Đàng Ngoài, nhưng chỉ mới tiến hành khảo hạch ở huyện đã thấy sĩ tử không ai hưởng ứng. Tiếp đến, quân Tây sơn kéo ra đánh chiếm Phú Xuân năm 1786, Đàng Trong loạn lạc kéo dài, việc học hành thi cử bị đình đốn.

Nhà Tây Sơn chỉ chú trọng vũ công. Tuy vậy, trong địa bàn cai trị của mình, Quang Trung biết trọng dụng các nho sĩ Bắc Hà do khoa mục xuất thân. Năm 1789, mở khoa thi Tuấn tài ở Nghệ An, chỉ thi 2 kỳ: chế nghĩa và văn sách. Người thi đỗ gọi là Tuấn sĩ. Khoa này do La sơn Phu tử làm Đề điệu, và bài thi thuần dùng tiếng Nôm. Đây là một tiến bộ lớn mặc dù đề thi còn dùng Hán tự.

III. Qui chế thi cử chữ Nho dưới triều Nguyễn

Việc thi cử chữ Nho dưới triều Nguyễn có thể chia làm 3 giai đoạn:

- Thời kỳ các chúa Nguyễn ở Đàng Trong;

- Thời kỳ các vua Nguyễn trên toàn bộ đất nước thống nhất;

- Thời kỳ Pháp thuộc tại các xứ Bảo hộ Trung Bắc Kỳ.

Thời kỳ các chúa Nguyễn ở Đàng Trong

Từ năm 1632, cứ 5 năm một lần, các chúa Nguyễn cho mở Xuân thiên Quận thí tại các dinh trấn, thí sinh làm trong một ngày một bài thơ, một bài văn, người thi đỗ được gọi là Nhiêu học, được tuyển dụng làm Huấn đạo. Ngoài ra còn có kỳ thi viết chữ tốt gọi là Hoa văn tự thể để chọn người làm thư lại ở các ty Xá sai, Tướng thần lại và Lệnh sử. Cứ 9 năm một lần, các chúa Nguyễn cho mở Thu vi Hội thí tại phủ chúa, thi trong 3 ngày, trãi qua 3 trường: trường 1 làm 3 bài tứ lục, trường 2 làm thơ phú, trường 3 làm văn sách, người trúng tuyển chia làm 3 hạng: hạng giáp gọi là Hương cống, bổ dụng làm Tri phủ, Tri huyện, hạng ất gọi là Sinh đồ, bổ dụng làm Huấn đạo, hạng bính cũng gọi là Sinh đồ, bổ dụng làm Lễ sinh. Về sau, năm 1646, Nguyễn Phước Lan cải gọi Thu vi Hội thí là khoa Chính đồ, định lệ 6 năm một khoa, trúng tuyển hạng giáp thì gọi là Giám sinh, còn các hạng ất, bính thì vẫn gọi là sinh đồ. Năm 1691, Nguyễn Phước Chu lập Văn Miếu ở làng Triều sơn. Năm 1695, sau kỳ thi Chính đồ, Nguyễn Phước Chu mở thêm tại sân phủ chúa 2 khoa mới là thi Văn thức và thi Tam ty, có thể xem như là hình thức thi Đình đầu tiên ở Đàng Trong. Nguyễn Phước Khoát định lại lệ 3 năm một khoa quận thí, và về sau bỏ việc thi ở quận, chỉ tổ chức thi Hội nhưng tăng lên 4 trường: trường 1 làm 3 bài tứ lục, thi đỗ cho làm Nhiêu học tuyển trường, trường 2 thi thơ phú, trường 3 làm 2 bài kinh nghĩa, thi đỗ cho làm Nhiêu học trúng tuyển, trường 4 làm 1 bài văn sách, thi đỗ được gọi là Hương cống, bổ dụng làm Tri phủ, Tri huyện, Huấn đạo (9). Nói chung, các chúa Nguyễn không vụ hình thức, chỉ nhắm việc thực tiễn là tuyển chọn người giỏi để dùng. Thí dụ Nguyễn Phước Tần không mở một khoa Chính đồ nào cả, mà cũng không lấy một người Nhiêu học. Ngược lại, chúa đã đặt ra khoa Thám phỏng, chỉ thi trong một ngày, hỏi về việc binh, tình trạng quốc dân, việc vua Lê chúa Trịnh, v.v., người trúng tuyển được bổ dụng vào làm việc ở các ty Xá sai, Tướng Thần lại, hay Lệnh sử, là những tổ chức tương đương với các ty Đô, Thừa, Hiến ở Đàng Ngoài.

Thời kỳ các vua Nguyễn

Gia Long thống nhất đất nước, dự tính cứ 3 năm một lần mở các khoa thi Hương, thi Hội, nhưng mãi đến năm 1807 mới mở khoa thi Hương đầu tiên. Phép thi chia làm 4 trường: trường 1 thi Kinh Truyện, trường 2 thi Chiếu Chế Biểu, trường 3 thi Thi Phú, trường 4 thi Sách vấn. Đỗ trường trước mới được vào trường sau, đỗ 3 trường gọi là Sinh đồ, đỗ cả 4 trường gọi là Hương cống. Lúc bấy giờ trong nước có 6 trường thi: Nghệ An, Thanh Hoa, Kinh Bắc, Sơn Nam, Sơn Tây và Hải Dương. Năm sau 1808, Gia Long xây Văn miếu tại làng An ninh, gần Long Hồ, cách chùa Thiên Mụ khoảng nửa kilômét. Khoa thi Huương tiếp theo, mở năm 1813, đặt thêm 3 trường thi Quảng Đức (Huế), Thăng Long (Hà Nội), và Gia Định (Sài Gòn), nhưng lại bãi bỏ 2 trường Kinh Bắc và Sơn Tây. Sĩ tử hai nơi này hiệp thí ở trườngThăng Long. Năm 1819, trường Quảng Đức cải gọi là trường Trực Lệ. Năm 1821, Minh Mạng năm thứ 2, mở ân khoa. Năm sau, 1822, mở Hội thí ân khoa. Đây là khoa thi Hội đầu tiên của triều Nguyễn. Định lệ các Hương cống và Giám sinh thì làm bài quyển mực, Thư lại và Đằng tả thì làm bài quyển son (4). Sau kỳ Điện thí, những người trúng tuyển được phân làm 2 hạng: Tiến sĩ và Đồng Tiến sĩ xuất thân, được ban áo mão, trâm, vải vóc, được đãi yến, và được cấp cờ, biển vinh qui. Năm 1825, Minh Mạng thứ sáu, định lệ 3 năm mở khoa thi một lần, Hương thí thi vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Hội thí thi vào các năm Thìn Tuất, Sửu, Mùi. Lại cải gọi Hương cống làm Cử nhân, Sinh đồ làm Tú tài. Sĩ tử muốn đi thi phải qua kỳ khảo hạch ở Phủ Huyện do các quan Huấn đạo, Giáo thụ phụ trách. Người học trò qua được khảo hạch thì gọi là Khóa sinh. Tiếp theo, anh Khóa còn phải trúng tuyển kỳ phúc hạch tại tỉnh nhà do quan Đốc học chủ khảo nhiên hậu mới được gọi là Thí sinh, có quyền nộp quyển đi thi Hương. Khoa thi Hương năm này, mỗi trường thi được vua ban một tấm bài Phụng Chỉ, và một lá cờ Khâm Sai. Trường thi Trực Lệ được đổi tên là trường thi Thừa Thiên (Trường Thừa), trường thi Thăng Long đổi tên là trường thi Hà Nội (Trường Hà), trường thi Sơn Nam đổi tên là trường thi Nam Định (Trường Nam). Trong khoa thi Hội lần này, (năm 1826), Phan Thanh Giản, người An Thạnh, Vĩnh Bình, đỗ Đệ Tam giáp Tiến sĩ, là người Nam Kỳ đầu tiên đậu đại khoa. Từ khoa Hội thí năm 1829, vẫn đời Minh Mạng, bài thi được chấm điểm và phân hạng theo phân số: được 10 hay 9 phân là ưu hạng, được 8 hay 7 phân là ưu thứ hạng, được 6 hay 5 phân là bình hạng, được 4 hay 3 phân là bình thứ hạng, được 2 hay 1 phân là thứ hạng, không được 1 phân là liệt, tức là bị loại ngay. Những người đỗ cả 3 kỳ và được 10 phân trở lên được sắp vào Chánh bảng để vào Đình thí. Những người đỗ cả 3 kỳ với phân số từ 4 đến 9, và những người đỗ được 2 kỳ nhưng được 10 phân trở lên thì được xếp vào Phó bảng. Phó bảng cũng được kể là Đại khoa, nhưng không phải là hàng giáp đệ. Năm 1843, đời Thiệu Trị, trường Thừa Thiên được kiến thiết bằng gạch ngói với quy mô lớn tại phường Ninh Bắc để làm nơi thi Hương và thi Hội, và để làm mẫu cho các tỉnh xây cất lại trường thi. Đến năm sau Hội thí (1844), định lệ cho các Giáo thụ và Huấn đạo do Cử nhân xuất chính, và các Giám sinh và Tú tài xuất thân được dự Hội thí. Năm 1850, niên hiệu Tự Đức thứ 3, mở thêm trường thi Bình Định. Lại chia việc phê điểm làm 6 hạng: ưu, ưu thứ, bình, bình thứ, thứ, thứ thứ, và định lệ trở lại thi Hương thi Hội gồm 4 trường. Về Hương thí, đỗ trường 3 là Tú tài, đỗ trường 4 là Cử nhân. Về Hội thí, đỗ 4 trường thì được vào Đình thí. Nếu bài đối sách được 4 phân trở lên thì đỗ giáp đệ. Nếu 3 phân trở xuống là Phó bảng. Cuối đời Tự Đức, năm 1876, lại cải đổi chỉ thi 3 trường. Đến năm 1884, Kiến Phúc nguyên niên, lại định lệ người nào trúng cả 3 trường mà quyển thi có ưu, bình thì cho yết bảng ngay, số còn lại thì chia vi vào thi lại cả 3 trường trong 3 ngày để phúc khảo. Lại định thêm lệ ‘nhất Cử tam Tú’, cứ một Cử nhân thì lấy thêm 3 Tú tài.

Buổi đầu thời Pháp thuộc tại Bắc và Trung Kỳ

Người Pháp đánh Gia Định năm 1859 và chiếm trọn Nam Kỳ năm 1867, từ đó việc học hành thi cử chữ Nho ở xứ thuộc địa Nam Kỳ bị bãi bõ. Trên lãnh thổ 2 xứ bảo hộ Bắc Kỳ và Trung Kỳ, sau hòa ước Patenôtre năm 1884, Nhà Nguyễn vẫn tiếp tục mở các khoa thi Hương thi Hội theo thể lệ cũ. Tuy nhiên người Pháp dần dà đưa vào một số thay đổi như có thêm môn nhiệm ý thi chữ Pháp (dịch Pháp văn ra quốc ngữ). Sự can thiệp của người Pháp có phần mạnh mẽ và lộ liễu ở Bắc Kỳ hơn ở Trung Kỳ. Trường thi Hà Nội bị bãi bỏ năm 1886, sĩ tử Hà Nội phải vào thi chung với Nam Định tại trường mới được cải danh là trường thi Hà Nam. Tổng Trú sứ Paulin Vial gợi ý ra đề mục trường 1 là ‘Phép xã giao đối với bạn hữu và người ngoại quốc’, và đề mục trường 3 là ‘Thí sinh nghĩ gì về đương triều và cuộc khởi nghĩa của Văn thân?’ để dọ dẫm dư luận sĩ tử Bắc Kỳ (10). Năm 1903, Thống sứ Bắc Kỳ Luce tư cho Công sứ các tỉnh yêu cầu các Đốc học loại bớt thí sinh trong danh sách. Năm 1906, Thống sứ Groleau sức cho Đốc học các tỉnh, tùy tỉnh lớn tỉnh nhỏ, mỗi tỉnh không được lấy quá 500, 600 người đi thi. Vụ này đã gây nên cuộc biểu tình của hơn 2000 thí sinh trước cổng trường thi Hà Nam, và mào đầu cho phong trào xuất dương du học. Đến năm 1907, Duy Tân nguyên niên, đặt thêm bộ Học ở Huế. Việc thi cử trước đây thuộc Tân Hưng Ty bộ Lễ, từ nay thuộc bộ Học. Khoa thi năm 1909 có cải cách lớn là ngoài Kinh Truyện, Bắc Nam Sử, Thi Phú, không còn thi Chiếu Chế Biểu mà thi 2 đề Luận, một đề chữ Nho và một đề quốc ngữ. Điểm phê từ 0 đến 20, được 10 điểm trở lên là trúng bảng. Nếu có tình nguyện thi chữ Pháp thì thi thêm 1 trường riêng, cũng phê điểm từ 0 đến 20, nhưng chỉ lấy hàng số lẻ các điểm thi trên 10 cộng chung vào sổ điểm các trường kia. Trường 1 và trường 2 phải đủ 10 điểm trở lên mới được thi trường trên. Những quyển thi mà 3 trường được từ 40 điểm trở lên, cùng những quyển thi 3 trường được tối thiểu 30 điểm cộng thêm số lẻ của bài thi chữ Pháp được từ 40 điểm trở lên, thảy đều được chấm đậu vào trường phúc hạch. Vào phúc hạch thì làm 1 đạo Văn sách, 1 bài Phú và 1 bài Luận quốc ngữ. Được từ 7 điểm trở lên thì đỗ Cử Nhân. Tổng cộng các trường được từ 30 đến 39 điểm thì được xếp vào hàng Tú tài để theo thứ tự được lấy đỗ theo lệ nhất Cử tam Tú. Từ khoa thi này, sĩ tử phải không quá 50 tuổi mới được đi thi, ngoại trừ các hạng Tú tài xuất thân, Giám sinh, Tôn sinh, Ấm sinh, không hạn chế tuổi. Đến năm 1912 thì hạn tuổi được đi thi giảm còn 40 tuổi trở xuống, và 2 môn Thi Phú bị đình bãi. Riêng trường thi Hà Nam thì chỉ còn thi 3 trường với rất nhiều cải đổi mới: trường 1 thi Văn sách gồm các môn Luân lý, Văn chương, Nam sử, Đông Dương Chính trị hay Nam triều Luật lệ, trường 2 thi quốc ngữ về Văn chương, Toán pháp, Sử Địa và Cách trí, trường phúc hạch thi Luận chữ Nho 1 đề và Luận quốc ngữ 1 đề. Năm 1915, niên hiệu Duy Tân thứ 9, môn Pháp văn trở thành môn thi bắt buộc. Khoa Ất Mão năm 1915 này là khoa thi chữ Nho cuối cùng ở Bắc Kỳ. Năm 1918, niên hiệu Khải Định thứ 3, tại trường thi Thừa Thiên có thêm môn Toán Đo lường. Khoa Mậu Ngọ năm 1918 này là khoa thi chữ Nho cuối cùng ở Trung Kỳ.

Chú giải:

1. Lý Tế Xuyên. Việt Điện U Linh Tập. Bản in lại từ báo Nhân Dân Điện tử ngày 14/04/2002.

2. Nguyễn Thị Chân Quỳnh. Khoa Cử Việt Nam. An Tiêm xuất bản. Paris 2002.

3. Lê Tắc. An Nam Chí Lược. Ủy Ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam, Viện Đại Học Huế, 1961.

4. Phạm Đình Toái và Cao Xuân Dục. Quốc Triều Hương Khoa Lục. Bản dịch của Hà Mai Phương, Mai Hiên xuất bản, Santa Clara, CA, 1980.

5. Minh Vũ Hồ Văn Châm. Vụ án văn học Lệ Chi Viên. Tập san Định Hướng số 27, Mùa Hè 2001. Trung tâm Văn hóa Nguyễn Trường Tộ, 13G rue de l’Ill, 67116 Reichstett, France.

6. Vũ Phương Đề. Công Dư Tiệp Ký. Bản dịch của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm, Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn 1961 & 1962.

7. Nguyễn Thị Chân Quỳnh. Lối Xưa Xe Ngựa. An Tiêm xuất bản. Paris 1995.

8. Trần Gia Phụng. Thi cử tại Huế trước thời Quốc Học. Giai phẩm Xuân Giáp Thân 2004 Quốc Học - Đồng Khánh Bắc California, CA, USA.

9. Lê Trọng Ngoạn, Ngô Văn Ban, Nguyễn Công Lý. Lược Khảo và Tra Cưú về Học chế - Quan chế ở Việt Nam từ 1945 về trước. Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội 1991.

10. Vial Paulin. Nos premières années au Tonkin. Voiron 1889.

(Xem tiếp kỳ 2)


Xem online : Từ anh khóa, thầy đồ, đến ông quan (2)