Trung tâm lưu trữ quốc gia Đà Lạt

Khởi nguyên, đó là khu “biệt điện” của gia đình Ngô Đình Nhu. Ba tòa biệt thự tráng lệ nằm trên một triền đồi được coi là ở thế đắc địa tại thành phố Đà Lạt này được xây dựng từ hơn nửa thế kỷ nay.

Sau chính biến 1963, chính quyền Sài Gòn đã trưng dụng làm Bảo tàng Sắc tộc Tây Nguyên. Mới đây, với nguồn kinh phí đầu tư trên 50 tỷ đồng, Bộ Nội vụ đã quyết định thành lập Trung tâm lưu trữ quốc gia 4. Cùng với nhiều tài liệu vô cùng quan trọng khác, đây là nơi lưu trữ kho tàng mộc bản, châu bản vô giá của triều Nguyễn…

Từ "đệ nhất biệt điện" trên cao nguyên...

Kho mộc bản triều Nguyễn

Kho mộc bản triều Nguyễn

Những bậc cao niên ở thành phố Đà Lạt kể rằng, ngày xưa, đây là nơi mà không một thường dân nào được phép bén mảng. Cũng chẳng biết ở trong đó thường có mặt ai và bày trí những gì. Chỉ biết rằng, phía sau hàng rào bảo vệ nghiêm ngặt ấy là sự hiện diện của những kẻ có quyền uy bậc nhất của Ngụy quyền Sài Gòn.

Vào thời hưng thịnh nhất của gia đình họ Ngô, năm 1958, vợ chồng Ngô Đình Nhu đã cho khởi công xây dựng khu “biệt điện”. Công trình này được coi là “sân sau” của gia đình quyền lực ấy nên được huy động tối đa trí lực, nhân lực và vật lực cho việc xây dựng. Khu “biệt điện” gồm có ba biệt thự là Hồng Ngọc, Bạch Ngọc và Lam Ngọc.

Bạch Ngọc là nơi giải trí của gia đình Trần Lệ Xuân và tướng tá Sài Gòn. Lam Ngọc được sử dụng làm nhà nghỉ cuối tuần của gia đình bà “cố vấn”. Còn Hồng Ngọc là tòa biệt thự mà Trần Lệ Xuân xây tặng riêng cho bố đẻ của mình là Trần Văn Chương lúc này đang là Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ. Chẳng ai biết Trần Lệ Xuân đã bỏ ra bao nhiêu tiền của, nhưng vẻ kiêu sang, lộng lẫy của công trình này thì vẫn hiện diện cho tới ngày nay. Chỉ là một “biệt điện” cho những ngày ăn chơi phè phỡn, nhưng nó cũng thể hiện đến đỉnh cao của quyền uy, sự giàu sang, phú quý của chủ nhân. Khuôn viên của tòa “biệt điện” nằm trên diện tích 13.000 mét vuông với đầy đủ phòng làm việc, hội họp, phòng khiêu vũ, phòng chiêu đãi…Ngoài sân có hồ bơi nước nóng, có vọng đài và một hoa viên cực đẹp do các kỹ sư đến từ đất nước Phù Tang thiết kế, vì vậy, nó còn được gọi tên là vườn hoa Nhật Bản. Phía sau vườn hoa này có một hồ sen, khi bơm đầy nước thì từ mặt hồ sẽ hiện rõ hình địa đồ Việt Nam - thể hiện giấc mơ “lấp sông Bến Hải” của ông bà “cố vấn chính trị”. Đặc biệt, để đề phòng bị tấn công bất ngờ, trong biệt thự Lam Ngọc còn có một căn hầm được thi công bằng loại thép đặc biệt, có thể chống đỡ sức công phá của hỏa lực hạng nặng. Trong căn hầm này có một đường hầm thoát hiểm, cho đến nay, người ta vẫn chỉ phỏng đoán là nó dẫn ra phía sân bay Cam Ly, cách nơi này chừng hai cây số…

Trong thời gian gia đình họ Ngô trên đỉnh cao quyền lực, “biệt điện” Trần Lệ Xuân là một trong những nơi được bảo vệ nghiêm ngặt nhất. Suốt ngày đêm, có hàng chục cảnh sát và vệ binh cộng hòa túc trực tuần phòng. Một con chim lạ bay vào khu vườn cũng sẽ bị bắn hạ. Thế nhưng, nhân nào thì quả nấy. Cuộc chính biến 1963 đã kết thúc sự “trị vì” của chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Cùng số phận với chủ nhân, tòa “biệt điện” được trưng dụng làm Bảo tàng Sắc tộc Tây Nguyên vào thời Nguyễn Văn Thiệu nắm quyền. Đến 1975, trong cuộc tháo chạy của ngụy quyền Sài Gòn, không ít cổ vật vô giá tại bảo tàng này đã bị tuồn ra nước ngoài, nhiều món cổ vật khác bị lấy cắp, đập phá. Sau ngày nước nhà thống nhất, chính quyền cách mạng đã tiếp quản và gìn giữ nơi này như một phần tài sản quốc gia. Đầu năm 2007, Bộ Nội vụ đã quyết định đầu tư 53 tỷ đồng để nâng cấp khu “biệt điện” này và thành lập tại đây Trung tâm lưu trữ Quốc gia 4…

Đến kho lưu trữ mộc bản triều Nguyễn....

Sau một năm thi công trùng tu, cuối tháng 12-2007, khu “biệt điện” ngày xưa đã trở thành cơ sở của Trung tâm lưu trữ Quốc gia 4 thuộc Trung tâm lưu trữ Quốc gia. Quan điểm của cơ quan chủ quản trong quá trình trùng tu, nâng cấp là giữ nguyên kiến trúc của tòa “biệt điện”, chỉ thay thế một số tiểu tiết để phù hợp với công năng sử dụng.

Một góc Trung tâm lưu trữ QG Đà Lạt

Trong ba tòa biệt thự, hệ thống tài liệu đã được trưng bày theo hai chuyên đề lớn: lưu trữ Việt Nam từ 1962 đến nay (lịch sử của ngành lưu trữ Việt Nam) và miền Trung - Tây Nguyên trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong đó có mảng đặc sắc là mộc bản triều Nguyễn. Cũng tại đây, có một chuyên đề riêng: Ngô Đình Nhu - nhà lưu trữ Việt Nam.

Khi Bảo Đại lên làm quốc trưởng của chính phủ bù nhìn thuộc Pháp, ông ta đã chọn Đà Lạt làm Hoàng triều cương thổ. Toàn bộ mộc bản triều Nguyễn được ông ta cho chuyển về miền đất cao nguyên.

Ban đầu, kho tàng ấy được cất giữ ở Nha Ngân khố rồi sau đó chuyển đến nhà dòng Chúa Cứu thế. Từ năm 1983 đến nay, những tài liệu quý này tiếp tục được lưu giữ tại “biệt điện”.

Mộc bản triều Nguyễn chính là những tấm gỗ quý được khắc chữ Hán và chữ Nôm (chữ khắc ngược) dùng để nhân bản tài liệu nhằm phổ biến rộng rãi ra công chúng các chuẩn mực xã hội, các điều luật bắt buộc thần dân y tuân. Đó cũng là những bản khắc lưu truyền công danh, sự nghiệp của các bậc vua chúa, các sự kiện lịch sử, các biến cố thời cuộc, các cuộc tiễu trừ giặc dã…

Tất cả các bản thảo nói trên đều được Hoàng Đế ngự lãm, phê duyệt trước khi giao cho những người thợ tài hoa nhất trong cung đình khắc lên gỗ quý. Theo các chuyên gia, do tính chất quan trọng của mộc bản, dưới thời Minh Mạng, nhà vua từng có chỉ dụ: “Sai quan Bắc thành kiểm xét các ván in nguyên trữ tại Văn Miếu (Hà Nội) về các sách Ngũ Kinh, Tứ Thư Đại Toàn, Vũ Kinh Trực Giải cùng Tiền Hậu Chính Sử và Tứ Trường Văn Thể gửi về Kinh để ở Quốc Tử Giám (Kinh đô Huế)”.

Ngay sau khi đăng quang vào năm 1841, vua Thiệu Trị cũng đã ban sắc cho thuyền binh chở toàn bộ mộc bản từ Quốc Tử Giám - Hà Nội về Kinh đô Huế để bảo quản, tu bổ. Tại các nơi bảo quản, nhân viên coi giữ tài liệu của triều đình thường xuyên kiểm tra các bản khắc, nếu bản nào bị hư hỏng hay nét chữ bị mất nét thì báo cho quan Đốc công Vũ khố đốc sức cho thợ phục chế ngay…

Theo giảng viên Hán - Nôm Nguyễn Thanh Châu, loại gỗ phổ biến nhất dùng làm ván khắc là gỗ thị. Loại gỗ này có ưu điểm là dai, mềm và mịn, khó bị nứt nẻ nên chữ khắc trên đó sẽ không bị lệch. Còn sách Đại Nam nhất thống chí thì ghi, mộc bản còn được chế tác từ “cây nha đồng, tục danh là sống mật, sớ gỗ trắng, sáng ngời như ngà voi”.

Một số nhà nghiên cứu Hán - Nôm và các chuyên gia lưu trữ tỏ ra hết sức tiếc nuối, vì chưa hiểu tầm quan trọng và sự quý giá của hệ thống tài liệu này nên việc bảo quản và phục chế còn bị xem nhẹ. Hậu quả của nó là hàng loạt các mộc bản bị thất lạc, hư hỏng nặng, thậm chí một số người không hiểu biết đã chẻ làm củi đun!

Ván khắc và bản in

Châu bản, mộc bản, sách ngự lãm là kho tư liệu quý, nguồn sử liệu phong phú và rất đáng tin cậy về đời sống chính trị, xã hội thời Nguyễn. Thế nhưng, tỷ lệ châu bản còn lưu giữ được đến nay chỉ khoàng 20%. Các sách sử in vào thời đó cũng bị hư hỏng và mất mát nhiều, số còn giữ được vừa thiếu vừa không đồng bộ; quá trình tìm kiếm và sao chép lại cũng không thể tránh được tình trạng “tam sao thất bản”. Số lượng mộc bản hiện còn được lưu trữ tại đây khoảng 30 ngàn tiêu bản.

Với sự cộng tác của các nhà nghiên cứu Hán - Nôm như Đinh Tấn Dung, Tăng Văn Hỷ, Vũ Văn Kính cùng PGS Phạm Gia Phu và giảng viên Nguyễn Thanh Châu của Đại học Đà Lạt, trong những năm qua, Trung tâm lưu trữ Quốc gia đã triển khai chương trình “cấp cứu tài liệu châu bản - mộc bản”. Nhiệm vụ của chương trình là nghiên cứu, phân loại, sắp xếp lại toàn bộ hệ thống mộc bản, châu bản bị xáo trộn nhiều năm.

Đến nay, toàn bộ tài liệu mộc bản đã được in ra giấy dó rồi hệ thống hóa, tổng hợp được 152 đầu sách thuộc ba nhóm chính: chính sử triều Nguyễn, tác phẩm văn chương và sách kinh điển của các nhà Nho dùng để dạy và học. Trung tâm lưu trữ cũng đã ghi hết các tài liệu vào CD-Rom, ghi lại bản rập các tài liệu mộc bản triều Nguyễn. Chương trình quản lý tài liệu được xây dựng và nạp vào máy tính để thuận lợi cho việc tra cứu một cách có hệ thống và in sao dễ dàng.

Trung tâm lưu trữ quốc gia 4 cũng đã xuất bản cuốn sách “Mộc bản triều Nguyễn - đề mục tổng quan” để công bố, giới thiệu toàn bộ tài liệu quý hiếm này. Lãnh đạo trung tâm cho biết, các bản gốc mộc bản được bảo quản trong một kho chuyên dụng được trang bị hiện đại nhất nước nhằm tăng tuổi thọ của các tài liệu đó đến muôn đời sau. Kho chuyên dụng này có công suất chứa khoảng 5.000 mét các giá tài liệu với hệ thống điều hòa trung tâm, phòng chống đột nhập, phòng cháy chữa cháy tự động…

Kho tàng mộc bản triều Nguyễn hiện được bảo quản nghiêm ngặt và khoa học tại thành phố Đà Lạt là một dạng lưu trữ đặc biệt của Việt Nam và rất hiếm có trên thế giới. Đây thực sự là những tài sản vô giá. Thời gian gần đây, dự luận đã bắt đầu quan tâm đến kho tàng này và nhiều đoàn khách trong và ngoài nước đã đăng ký được tham quan, tìm hiểu.

UÔNG THÁI BIỂU (NDĐT)