Về thuốc kháng Histamin

Histamin là một acid amin có gốc CO2 và cấu tạo từ Histadin. Khi mất CO2, Histadin biến thành Histamin. Người ta thấy rằng các vi khuẩn ruột như trực khuẩn lị, phó thương hàn… có thể chiếm CO2 ở Histadin và cho Histamin.

Một số thực phẩm như thịt, cá ươn có nhiều Histamin. Trong cơ thể, Histamin có ở máu (khoảng 50-60 microgam/lít) và ở các tổ chức dưới da, phổi, dạ dày, ruột, nhất là ở bạch cầu ái kiềm và tế bào mastocyt.

Đôi điều về thuốc kháng Histamin

Histamin là chất độc. Với thỏ, chỉ cần tiêm vào tĩnh mạch 3mg/kg cân nặng, thỏ sẽ chết ngay. Histamin giữ được mức hằng định trong máu người là nhờ men Histaminaga tiêu hủy bớt Histamin khi hàm lượng Histamin máu vượt ngưỡng cho phép. Men này có sẵn trong máu, phổi hay gan thận. Nếu vì một tác nhân nào đó, Histamin được sinh ra quá nhiều làm men Histaminaga không thể tiêu hủy kịp thì lúc này cơ thể phát sinh bệnh dị ứng mẩn ngứa, mày đay…

Tuy Histamin độc như vậy nhưng tồn tại ở ngưỡng cho phép trong cơ thể thì hoàn toàn vô hại và còn có tác dụng trong vận mạch như làm giãn các mao mạch máu, làm tăng tính thẩm thấu của các mao quản, nhờ vậy mà nước, protein, hồng cầu mới thoát được ra ngoài mao quản làm cho các tổ chức xung quanh ứ nước phù nề, đồng thời làm hạ huyết áp động mạch. Đối với cơ trơn như khí quản, ruột non, dạ con thì làm các cơ quan này co bóp lại, gây nên cơn hen, đau bụng. Với hệ bài tiết, sẽ làm tăng bài tiết (trừ sữa và mồ hôi), tăng tiết dịch vị, tăng tiết Adrenaline.

Với những tác dụng sinh lý vừa nêu, Histamin giữ vai trò quan trọng trong cơ chế sinh bệnh choáng, quá mẫn cảm và những biểu hiện tình trạng dị ứng, nổi mày đay, sẩn ngứa, Eczema…

Chất kháng Histamin có hai loại là tự nhiên và tổng hợp. Loại tự nhiên được lấy ở gan, thận, phổi, Adrenaline, Ephedrin, Theophylin… để có Histaminaga. Những loại này đều có tác dụng đối lập với Histamin nên được dùng điều trị các cơn hen, mày đay cấp tính sơ phát. Càng về sau tác dụng của các loại này càng giảm. Với loại tổng hợp sẽ ít gây tác dụng khó chịu hơn loại tự nhiên, nhưng không có tác dụng trung hòa, tiêu hủy hay ức chế sự sản sinh Histamin, mà là tác dụng “tranh chấp”, “giành giật” tại các tế bào của các cơ quan cảm thụ với Histamin. Do vậy, tế bào bị các chất kháng Histamin “chiếm” sẽ không bị nhiễm Histamin nữa. Bởi vậy thuốc kháng Histamin tổng hợp chỉ chữa được triệu chứng, tác dụng tạm thời, không điều trị được nguyên nhân căn bản, không ngăn ngừa được tái phát. Vì vậy thuốc cần được dùng sớm và lâu dài mới đảm bảo được kết quả.

Chính vì những lẽ đó mà việc chỉ định để điều trị những bệnh hay gặp như dị ứng, bệnh ngứa cần phải kết hợp với các thuốc an thần, giải cảm, chống ngứa khác. Đó là các bệnh mày đay, phù Quinck, Eczema, sẩn ngứa, nhiễm độc dị ứng thuốc, xuất huyết dưới da do dị ứng…

Nguyên tắc sử dụng

Cần thận trọng khi sử dụng và phải hiểu được thuốc kháng Histamin là những thuốc chỉ điều trị được triệu chứng tạm thời, phải tìm ra và loại bỏ nguyên nhân mới mang lại kết quả chắc chắn, lâu dài. Ví dụ, dị ứng do sơn guốc thì không được đi guốc sơn ấy hoặc do phấn sáp thì không được dùng phấn sáp ấy nữa… Tất cả những thứ như sơn, phấn sáp được gọi là kháng nguyên. Ngoài ra, còn có rất nhiều thứ khác nữa có trong thực phẩm (tôm, cua), thuốc (Sulfamide, Penixilline…) đồ dùng hóa chất trong nông nghiệp, ổ nhiễm trùng khu trú, thời tiết, cơ địa...

Do vậy phải dùng nhiều đợt, lâu dài (đợt từ 10-15 ngày, từ 1-3 tháng) mới hạn chế được tái phát. Cần thay đổi liều lượng theo cơ địa, lứa tuổi và sức chịu đựng của mỗi người. Chú ý từng đợt có thể thay đổi thuốc để tránh quen thuốc, làm tăng tác dụng. Khi dùng thuốc, cần uống sau bữa ăn để tránh buồn nôn, nôn, đề phòng một số tác dụng phụ như xót ruột, nôn nao, buồn ngủ, choáng váng… Người đang lái xe hay ở tầng cao không nên dùng thuốc. Thuốc mỡ kháng Histamin bôi ngoài da vẫn có thể gây dị ứng.

Một số thuốc kháng Histamin tổng hợp thông thường

- Dimedrol: Lấy từ chuột tam thể chết sau khi tiêm Histamin. Thuốc gây buồn ngủ, mỗi ngày uống 1-3 lần, mỗi lần 0,03-0,05g. Tiêm bắp dung dịch 1-2% mỗi lần 0,01-0,05g. Trẻ em dùng dung dịch Dimedrol 1% mỗi ngày 10-20ml.

- Neo-antecgan: Uống hoặc tiêm bắp mỗi ngày 0,2-0,5g (có thể tiêm tĩnh mạch).

- Phenergan: Uống mỗi lần 0,025g. Mỗi ngày từ 2-3 lần. Tiêm bắp dung dịch 2,5% từ 1-2ml mỗi lần.

- Thiantan (Thiantettes): Mỗi lần uống 0,025-0,05g. Ngày 2-3 lần.

- Murtecgan: Uống 0,2-2g mỗi ngày chia làm nhiều liều nhỏ.

- Analecgin: Uống mỗi ngày 0,20-0,40g.

- Suprastin: Viên đóng 0,025g, mỗi ngày uống 2-4 chia 2 lần.

BS HOÀNG XUÂN ĐẠI