Nguồn Gốc Con Người: Thuyết Tiến Hóa (2)

2. VÀI NHẬN ĐỊNH NGÀY NAY VỀ THUYẾT TIẾN HÓA

Thuyết Tiến Hóa đã trở thành một sự kiện, tuy nhiên, một số ốc đảo cuồng tín trong Ki Tô Giáo vẫn còn tiếp tục chống đối thuyết Tiến Hóa, định thay thế thuyết Tiến Hóa bằng những sản phẩm Thần Học hạ đẳng bắt nguồn từ niềm tin vào sự “sáng tạo” của Thiên Chúa của Ki Tô Giáo như “Khoa học Sáng tạo” (Creation Science) hay “Thiết Kế Thông Minh” (Intelligent Design), nhưng tất cả đều đã thất bại. Ki Tô Giáo ngày nay đang cố gắng đưa ra những ngụy thuyết để hòa hợp với thuyết Tiến Hóa. Một trong những ngụy thuyết này là cho rằng thuyết Tiến Hóa nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa, cố tình quên rằng Thánh Kinh đã viết rõ, sau khi sáng tạo ra vạn vật Thiên Chúa đã tự khen là những sản phẩm sáng tạo của mình đều rất tốt đẹp (very good) cho nên không cần phải thay đổi gì nữa, vì là sản phẩm sáng tạo của một bậc toàn trí toàn năng, và con người đã được sáng tạo ra theo hình ảnh của Thiên Chúa...

Một trong những ngụy thuyết này là của Giáo hoàng John Paul II. Chúng ta biết rằng Giáo hoàng John Paul II đã chính thức công nhận trước thế giới thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ và thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc con người. Nhưng để vớt vát mặt mũi cho Thiên Chúa của Ngài, ngày 22 tháng 10, 1996, trong một thông điệp cho Hàn Lâm Viện Khoa Học của Giáo hoàng (Pontifical Academy of Sciences), Ngài lý luận: “Giữa những con khỉ tổ tiên và con người hiện đại, có một khoảng bất liên tục về bản thể, một khoảng trong đó Thiên Chúa đã chích vào giòng giống các động vật một linh hồn của người” [1]. Ngài hi vọng như vậy có thể hòa hợp thuyết Sáng Tạo với thuyết Tiến Hóa. Nhưng các khoa học gia lại cho rằng "cái bước nhảy vọt bản thể ấy là lúc mà có thể là 2 sắc tố của loài khỉ hợp nhất với nhau và những “gen” cho linh hồn nằm ngay khoảng giữa sắc tố số 2." [2]

Trước hàng núi những bằng chứng khoa học về thuyết Tiến Hóa, một số nhân vật có uy tín trong lãnh vực tôn giáo như Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục , Mục sư, học giả v.v. cũng phải cúi đầu trước thuyết Tiến Hóa, khoan kể đến giới khoa học gia đã chấp nhận thuyết Tiến Hóa từ trên trăm năm nay rồi. Sau đây chúng ta hãy đưa ra nhận định của một số nhân vật tôn giáo cũng như khoa học về Thuyết Tiến Hóa nói chung, trước những hiểu biết của chúng ta về Thuyết Tiến Hóa, và trước những bằng chứng trong khoa học:

1. Giáo Hoàng John Paul II phát biểu năm 1996:

"Thân xác con người có thể không phải là sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần... Những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận Thuyết Tiến Hóa hơn chỉ là một giả thuyết." [3]

2. Linh mục dòng Tên Teilhard de Chardin trong The Phenomenon of Man:

"Tiến Hóa là một thuyết, một hệ thống, hay một giả thuyết? Nó còn nhiều hơn nữa: nó là một điều kiện tổng quát mà mọi thuyết, mọi giả thuyết, mọi hệ thống phải cúi đầu trước nó và phải phù hợp với nó nếu chúng muốn được nghĩ tới và coi là đúng.. Tiến Hóa là một ánh sáng soi sáng mọi sự kiện, một đường cong mà mọi đường thẳng phải theo nó... " [4]

3. Mục sư Ernie Bringas trong cuốn: Going By The Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority:

"Thuyết Tiến Hóa là một trong những cấu trúc tuyệt vời và thành công nhất của tư tưởng con người. Mọi ngành khoa học đều tiếp tục ủng hộ và kiểm chứng quan niệm về sự tiến hóa. Thuyết Tiến Hóa , giống như Thuyết Tương Đối, không còn là một "thuyết" theo nghĩa thông thường nữa, mà là một nguyên lý khoa học đặt căn bản trên rất nhiều bằng chứng không còn phải bàn cãi nữa."
 [5]

4. Giám mục John Shelby Spong trong cuốn Why Christianity Must Change or Die:

"Thuyết Tiến Hóa làm cho Adam và Eve trở nên may nhất là những nhân vật theo truyền thuyết. Thuyết Tiến Hóa không dễ gì cho tổ chức tôn giáo chấp nhận, và ngày nay vẫn còn những tiếng nói cất lên từ những miền hẻo lánh của thế giới để chống đối thuyết này. Những tiếng nói này sẽ không bao giờ thành công. Nhân loại rõ ràng là tiến hóa theo một quá trình trải dài từ 4 tỷ rưỡi đến 5 tỷ năm. Không làm gì có hai cha mẹ đầu tiên (nghĩa là Adam và Eve. TCN), và do đó cái hành động bất tuân lúc đầu của hai bậc cha mẹ đầu tiên không thể nào có ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại. Do đó cái huyền thoại về tội tổ tông đã bị một đòn khai tử, và cái câu chuyện vững chắc về sự cứu rỗi do những người bảo vệ Ki-tô giáo dựng lên qua nhiều thời đại đã bắt đầu chao đảo." [6]

5. Ernst Mayr, Giáo sư danh dự đại học Harvard, trong cuốn What Evolution Is?:

"Tiến Hóa không chỉ đơn thuần là một ý tưởng, một lý thuyết, hay một quan niệm, mà là tên của một quá trình trong thiên nhiên. Sự xảy ra của quá trình này có thể chứng minh bằng tài liệu của hàng núi bằng chứng mà không ai có thể phủ bác được. Ngày nay, xét đến số lượng to lớn những bằng chứng đã được khám phá ra trong 140 năm nay để chứng minh sự hiện hữu của tiến hóa, thật là lạc dẫn khi ta coi Tiến Hóa như là một thuyết. Tiến Hóa không còn là một thuyết, nó đơn giản là một sự kiện." [7]

6. James Birx trong Interpreting Evolution:

"Tiến Hóa là một sự kiện vững chắc đã được cả khoa học và lý trí xác nhận; nhân loại chúng ta thì nối kết với sự sống, lịch sử của trái đất, thiên hà này (giải ngân hà mà thái dương hệ, trong đó có trái đất, nằm trong đó), và cả vũ trụ.

Có một nền thần học hiện đại nào mà chấp nhận cả hai quan điểm về vũ trụ và thuyết Tiến Hóa trong một cách nhìn khoáng đạt và không có huyền thoại về thế giới? Cuối cùng thì tín lý mù quáng của đức tin tôn giáo với những câu chuyện đã lỗi thời và những giá trị cận thị thực sự không còn mấy giá trị nữa; đó chỉ là sự mơ ước từ đó đặt niềm tin vào sự bất diệt của con người và vào một vũ trụ tâm linh." [8]

7. Stephen Jay Gould, trong phần Dẫn Nhập của cuốn “Tiến Hóa: Sự Chiến thắng Của Một Ý Tưởng” (Evolution: The Triumph of an Idea), tác giả là Carl Zimmer, một cuốn sách đi kèm với chương trình dài 8 tiếng đồng hồ của đài truyền hình PBS về thuyết Tiến Hóa (a companion to the PBS 8-hour television series on Evolution):

"Khoa học, như các chuyên gia chúng tôi thường vạch rõ, không thể thiết lập sự thật tuyệt đối; do đó, những kết luận của chúng tôi luôn luôn là có tính cách không dứt khoát. Nhưng sự hoài nghi lành mạnh này không cần phải đưa nó đến độ hư vô, và chúng tôi có thể chắc chắn nói rằng, một số sự kiện đã được kiểm chứng với đủ mức tin cậy cho nên chúng tôi có thể coi những sự kiện này là đúng sự thật trong bất cứ nền văn hóa địa phương nào trên thế giới.(tính phổ quát (universality) của các sự kiện khoa học. TCN)

Có lẽ tôi không thể tuyệt đối chắc chắn là quả đất thì tròn thay vì phẳng, nhưng dạng hình cầu của hành tinh của chúng ta đã được kiểm chứng đủ để cho tôi không cho phép “cái xã hội của những người tin trái đất phẳng” được hưởng đồng đều thời gian để dạy thuyết của họ, hay hưởng bất cứ khoảng thời gian nào, trong lớp dạy về khoa học của tôi.

Tiến Hóa, quan niệm căn bản của mọi khoa học về sinh học, đã được kiểm chứng rất kỹ, và do đó có thể coi như là đúng với sự thật." [9]

3. TÓM LƯỢC TỔNG KẾT VỀ CON NGƯỜI VÀ VŨ TRỤ

Ngày nay, thuyết Big Bang về Nguồn Gốc Vũ Trụ và Thuyết Tiến Hóa về Nguồn Gốc Con Người hầu như đã được toàn thể thế giới chấp nhận, nhất là trong giới khoa học và giới trí thức hiểu biết. Sau đây tôi xin trình bày một bảng tóm lược tổng kết về những hiểu biết mới nhất về vũ trụ và con người. Tất cả những con số chỉ là ước tính, không phải là những con số chính xác.

13.7 Tỷ Năm Trước:

Vài giây sau Big Bang, dương tử (proton) và trung hòa tử (neutron) cùng hiện hữu trong nhân của các nguyên tử đơn giản như hi-dro-gen. 30000 năm sau, các điện tử (electrons) bắt đầu quay xung quanh nhân, tập hợp với proton và neutron thành những nguyên tử (atoms).

13.5 Tỷ Năm Trước:

Những đám mây khí trở thành vô cùng đặc, tạo thành các sao, họp với nhau thành các thiên hà.

5 Tỷ Năm Trước:

Mặt Trời hình thành trong Giải Ngân Hà (Milky Way), tạo ra trái đất và các hành tinh, họp thành Thái Dương Hệ.

4 Tỷ Năm trước:

Các nguyên tử hi-dro-gen và o-xy-gen nối kết với nhau thành phân tử nước. Nước giúp cho sự tạo ra những phân tử khác.

3,9 Tỷ Năm trước:

Một loại màng sinh ra bao quanh những nhóm phân tử và tạo thành những sinh thể đơn tế bào gọi là vi khuẩn. Các tế bào có tính chất tăng trưởng, tự phân chia, và xuất hiện trên khắp trái đất.

1 Tỷ Năm Trước:

Những tế bào rong, rêu (algae) sống cùng với nhau, họp thành loại thực vật đầu tiên. Sự sống chung này khiến cho mỗi tế bào có một nhiệm vụ riêng biết. Để cho những nhiệm vụ này không lập đi lập lại, những tế bào phát sinh ra những chất hormone có thể liên lạc với nhau.

700 Triệu Năm trước:

Nhiều sinh vật đa tế bào phức tạp được tiến hóa thành, trong đó gồm có con sứa (jellyfish), sinh vật này phát triển những bắp thịt và thần kinh và các tế bào có thể liên lạc với nhau hữu hiệu hơn.

570 Triệu Năm Trước:

Những con sứa tiến hóa thành một loại sâu đầu tiên (flatworm) có những cơ quan như dạ dày và óc, và một cấu trúc đối xứng (giây thần kinh đi xuống hai bên), khởi đầu cho những dạng sinh vật cao hơn.

500 Triệu Năm Trước:

Phát sinh sinh vật có xương sống, một vài sinh vật này là tổ tiên của loài cá mút đá (lamprey) ngày nay, phát triển ở trong nước.

470 Triệu Năm trước:

Dưới dạng cổ rêu, những dạng sống đầu tiên rời nước và sống trên đất liền.

100 Triệu Năm Trước:

Loài vật có vú đầu tiên xuất hiện. Những con khỉ đầu tiên xuất hiện 80 triệu năm sau đó.

100.000 Năm Trước:

Loài người tiến hóa với một bộ óc lớn nhất tính theo tỷ lệ với kích thước của thân thể.

Trên đây là nguồn gốc con người. Nhưng chúng ta từ đâu đến? Sau đây là tóm tắt những hiểu biết mới nhất về giống người, theo National Geographic, March 2006:

Các khoa học gia từ trước vẫn cho rằng các sắc dân xuất xứ từ Phi Châu. Và gần đây các chuyên gia về Di Truyền Học đã đi tới cùng một kết luận như vậy qua những khảo cứu về DNA. Theo sự hiểu biết trong giới khoa học ngày nay thì con người xuất hiện trên khắp thế giới qua 6 giai đoạn di dân:

1. Cái nôi Phi Châu: Hầu hết các nhà cổ sinh vật – nhân chủng học (paleoanthropologists) và các nhà di truyền học đồng ý là con người hiện đại bắt đầu xuất hiện ở Phi Châu cách đây khoảng 200.000 năm. Di vật hóa thạch của con người sớm nhất được tìm thấy ở Omo Kibish, Ethiopia. Ở nhiều điểm trên đất Do Thái có nhiều bằng chứng về sự hiện diện của con người ngoài Phi Châu, nhưng nhóm người này không di dân xa hơn nữa và tuyệt chủng vào khoảng 90.000 năm trước đây.

2. Đi ra khỏi Phi Châu: Những dữ kiện về di truyền chứng tỏ rằng một nhóm nhỏ con người hiện đại đã rời khỏi Phi Châu vào khoảng từ 70.000 đến 50.000 năm trước đây và thay thế cho những người cổ xưa hơn như Neandertals. Tất cả những người không phải là Phi Châu đều là hậu duệ của nhóm người di dân ra khỏi Phi Châu này, có thể theo đường từ đầu ngọn của Hồng Hải và đi xuống theo một lối mở nhỏ hẹp ở phía Nam.

3. Những người Úc đầu tiên: Những khám phá ở hai nơi cổ xưa – những dụng cụ do người làm ra tìm thấy trong vùng Malakunanja và những di vật hóa thạch ở hồ Mungo – chứng tỏ rằng con người hiện đại đã theo con đường bờ biển dọc theo Nam Á và tới Úc khoảng 50.000 năm trước đây. Những hậu duệ của nhóm người này, các thổ dân Úc (Australian Aborigines), về di truyền, vẫn giữ lại sự riêng biệt cho đến ngày nay.

4. Những người Âu Châu đầu tiên: Những nhà cổ sinh vật – nhân chủng học từ lâu đã nghĩ rằng người Âu Châu theo đường từ Bắc Phi qua Levant. Nhưng những dữ kiện di truyền chứng tỏ rằng DNA của những người Tây Âu lai Á (Western Eurasians) thì giống DNA của những người Ấn Độ. Rất có thể là con người đã di dân từ Á Châu đến Âu Châu trong khoảng từ 40.000 đến 30.000 năm về trước.

5. Dân Á Châu: Vào khoảng 40.000 năm trước đây, con người đi đến Trung Á và tới miền cao phía Bắc Hi Mã Lạp Sơn. Cùng lúc họ đi qua Đông Ná Á và Trung Quốc, rồi tới Nhật Bản và Siberia. Những bằng chứng di truyền cho thấy con người ở miền Bắc Á đã di dân đến Mỹ Châu.

6. Tới Tân Thế Giới: Thời điểm chính xác con người đầu tiên tới Mỹ Châu vẫn còn trong vòng bàn cãi. Bằng chứng di truyền cho thấy thời điểm đó trong khoảng từ 20.000 tới 15.000 năm trước đây, khi mực nước biển thấp và đất liền nối Siberia với Alaska. Những vùng băng đá ở Bắc Mỹ bắt buộc những người mới tới Mỹ phải di chuyển xuống phía Nam...

Trên đây là những gì chúng ta biết ngày nay về nguồn gốc con người và đại khái là chúng ta từ đâu đến. Nhưng cũng như mọi ngành khoa học khác, sự hiểu biết trên không đứng một chỗ, và chúng ta hi vọng trong tương lai, xa hay gần chúng ta không định đoạt được, càng ngày chúng ta càng biết nhiều hơn và chính xác hơn về loài người của chúng ta.

Tôi xin kết bài này bằng một đoạn của Robert G. Ingersoll đã viết về thuyết Tiến Hóa của Charles Darwin cách đây hơn một thế kỷ như sau:

“Thế kỷ này (TK 19) sẽ được gọi là thế kỷ của Darwin. Ông ta là một trong những vĩ nhân trên trái đất. Ông ta đã giải thích rõ ràng những hiện tượng về sự sống hơn tất cả những ông thầy dạy của Ki Tô Giáo. Một bên, viết tên của Charles Darwin, và bên kia viết tên của mọi nhà thần học từ trước tới nay, và từ tên của Darwin đã tỏa ra nhiều ánh sáng hơn là ánh sáng của tất cả các nhà thần học gộp chung lại. Thuyết Tiến Hóa, thuyết sống còn thích ứng nhất với hoàn cảnh xung quanh, thuyết nguồn gốc các chủng loại của ông ta đã cất bỏ cái vết tích cuối cùng của Ki Tô Giáo ra khỏi những người có đầu óc. Ông ta không chỉ nói lên mà còn chứng minh là những người được Thần linh khải cho viết Thánh Kinh không biết gì về thế giới này, về nguồn gốc con người, về địa chất học, về thiên văn học, về thiên nhiên; rằng Thánh Kinh được viết do sự ngu si – với sự dọa dẫm để làm cho sợ hãi. Hãy nghĩ đến những người đã trả lời (phê bình) ông ta. Càng ngu bao nhiêu thì họ càng hồ hởi làm công việc này. Darwin bị chế riễu, khinh khi và coi thường bởi thế giới của Ki Tô Giáo, tuy vậy mà khi ông ta chết, Anh Quốc đã hãnh diện chôn ông ta cùng với những nhân vật cao quý nhất và vĩ đại nhất của nước Anh. [Darwin được chôn ngay gần Isaac Newton trong điện Westminster (Westminster Abbey). Trước sự kiện này, Mục sư Laing đã phê bình “đây là một bằng chứng chứng minh nước Anh không còn là một quốc gia theo Ki Tô Giáo nữa” (a proof that England is no longer a Christian country). TCN] Charles Darwin đã chinh phục thế giới trí thức, và những lý thuyết của ông ta ngày nay đã được chấp nhận như là những sự kiện.

Giáo hội Ki Tô dạy rằng con người đã được sáng tạo ra thật là hoàn hảo [vì theo hình ảnh của Thiên Chúa], và trong 6 ngàn năm qua đã không ngừng thoái hóa. Darwin đã chứng minh sự sai lầm của cái tín lý này. Ông ta chứng minh rằng con người, trong nhiều ngàn thời đại, đã không ngừng tiến bộ; rằng cái Vườn Eden là huyền thoại của kẻ ngu; rằng giáo lý về tội tổ tông không có nền tảng dựa trên sự kiện; rằng chuộc tội là một sự vô nghĩa; rằng con rắn không có quyến rũ con người ham muốn, và con người không có “sa ngã”.

Charles Darwin đã phá sập Ki Tô Giáo. Chẳng có gì khác còn lại ngoài một đức tin vào cái mà chúng ta biết không thể xảy ra và đã không hề xảy ra. Ki Tô Giáo và khoa học là kẻ thù của nhau. Một bên là mê tín, bên kia là một sự kiện. Một bên đặt nền tảng trên sự sai lầm, một bên trên sự chân thật. Một bên là kết quả của sự sợ hãi và đức tin, bên kia là sự tìm tòi để hiểu biết và lý trí.

Chúng ta hãy lương thiện. Tất cả những linh mục ở Rô Ma gộp lại có gia tăng sự phong phú của tâm linh như là Bruno không? Tất cả những linh mục ở Pháp gộp lại có góp phần lớn lao nào vào nền văn minh của thế giới như là Diderot và Voltaire không? Tất cả các mục sư ở Scotland gộp lại có gia thêm vào kiến thức của nhân loại như là David Hume không? Những người trong giới chăn chiên, mục sư, linh mục, giám mục, hống y và giáo hoàng, từ ngày Giê-su thăng thiên đến cuộc bầu phiếu cuối cùng, có góp phần vào sự tự do của con người như là Thomas Paine không? – góp phần vào khoa học như là Charles Darwin không?

Thế giới đã trở thành cái gì nếu không có những người không muốn tin vào Ki Tô Giáo?" [10]

Chúng ta nên để ý, Ingersoll viết bài trên vào cuối thế kỷ 19, khi mà Thuyết Tiến Hóa bị Ki Tô Giáo chống đối dữ dội, dựa trên một số chi tiết trong thuyết Tiến Hóa chưa thể kiểm chứng được. Với thời gian qua, càng ngày những kết quả nghiên cứu của các khoa học gia trong nhiều bộ môn khoa học mà chính Darwin cũng không biết đến càng chứng tỏ là thuyết Tiến Hóa có một căn bản vững chắc và có thể giải thích được rất nhiều điều trong nhiều bộ môn khoa học, nhất là trong Sinh Học, đặc biệt là về Nguồn Gốc Con Người.

Như trên đã nói, thuyết Tiến Hóa của Charles Darwin và những phát triển về sau trong nhiều bộ môn khoa học đã mở mang đầu óc con người rất nhiều và có ảnh hưởng vô cùng lớn lao trên xã hội loài người. Đi từ thuyết Tiến Hóa con người đã phát triển ra những bộ môn khoa học có ích cho con người, nhất là về sinh học, khám phá ra Genome, DNA, “gen” v…v… và tiến một bước dài trong y học để đối trị với những bệnh tật như ung thư, AIDS v.v. mà ngày nay vẫn còn một số người tin rằng do Thiên Chúa của họ tạo ra để trừng phạt những đứa con bị Thiên Chúa ghét.

Trong bài viết trên, tôi đã cố gắng viết thật đơn giản về thuyết Tiến Hóa, không đi vào những chi tiết chuyên môn thí dụ như sự sao y chính bản (replication) của các DNA, sự chuyển dịch (translation), sự tạo ra các RNA từ DNA v.v. và vô số các hiện tượng khác trong Sinh Học cũng như chi tiết về “cây Tiến Hóa”. Đây là những đề tài vô cùng phong phú và thích thú, cho nên tôi muốn đề nghị với quý độc giả mấy cuốn sách căn bản, qua đó quý vị có thể hiểu rõ chi tiết đầy đủ hơn về “Nguồn Gốc Vũ Trụ” và “Nguồn Gốc Con Người”:


Angela, Piero & Alberto, The Extraordinary Story of Life on Earth, Prometheus Books, New York , 1996.

Birx, James, Interpreting Evolution: Darwin & Teilhard De Chardin, Prometheus Books, New York, 1991

Davis, Bernard D., The Genetic Revolution, The John Hopkins University Press, Baltimore, 1991.

Gould, Stephen Jay, General Editor, The Book of Life, W.W. Norton & Company, New York, 2001

Gribbin, John, In The Beginning: After COBE & Before The Big Bang, Little Brown & Company, New York, 1993

Gribbin, John & Cherfas, Jeremy, The First Chimpanzee: In Search of Human Origins, Barnes & Noble Books, New York, 2001.

Leaky, Richard & Lewin, Roger, Origins Reconsidered: In Search of What Makes Us Human, Doubleday, New York, 1992.

Liebes, Sidney & Sahtouris, Elisabeth & Swimme, Brian, A Walk Through Time: From Stardust to Us, The Evolution of Life on Earth, John Wiley & Sons, Inc., New York, 1998.

Lockley, Martin, The Eternal Trail: A Tracker Looks at Evolution, Perseus Books, Reading, Massachusetts, 1999.

Mayr, Ernst, What Evolution Is?, Perseus Books, New York, 2001.

Ridley, Matt, Genome: The Autobiography of a Species in 23 Chapters, HarperCollinsPublishers, New York, 1999.

Shapiro, Robert, Origins: A Skeptic Guide To The Creation of Life on Earth, Bantam Books, New York, 1987.

Singh, Simon, Big Bang: The Origin of the Universe, Fourth Estate, New York, 2004.

Wade, Nicholas, Before The Dawn: Recovering The Lost History of Our Ancestors, The Penguin Press, New York, 2006.

Zimmer, Carl, Evolution: The Triumph of an Idea, HarperCollinsPublishers, New York, 2001.

GS Trần Chung Ngọc

(xem kỳ 1)

[1Matt Ridley, p. 24: Between ancestral apes and modern human beings, there was an “ontological discontinuity” – a point at which God injected a human soul into an animal lineage

[2Matt Ridley, Ibid.: Perhaps the ontological leap came at the moment when two ape chromosomes were fused, and the genes for the soul lie near the middle of Chromosome 2

[3The human body may not have been the immediate creation of God, but is the product of a gradual process of evolution... Fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution as more than just a hypothesis.

[4Is evolution a theory, a system or a hypothesis? It is much more: it is a general condition to which all theories, all hypotheses, all systems must bow and which they must satisfy henceforth if they are to be thinkable and true. Evolution is a light illuminating all facts, a curve that all lines must follow...

[5The theory of evolution is among the most elegant and fruitful structures of human thought... All scientific disciplines continue to support and verify the concept of evolution. The theory of evolution, like the theory of relativity, is no longer a "theory" in the popular sense, but a scientific principle based on considerable, indisputable evidence.

[6The theory of evolution made Adam and Eve legendary at best. Evolution was not easy for the religious establishment to accept, and still voices are raised today in remote areas of the world to resit it. Those voices will never succeed. Human life clearly evolved over a four-and-a-half-to-five-billion-year process. There were no first parents, and so the primeval act of disobedience on the part of first parents could not possibly have affected the whole human race. The myth was thus dealt a blow, and the monolithic story of salvation built by Christian apologists over the age began to totter.

[7Evolution is not merely an idea, a theory, or a concept, but is the name of a process in nature, the occurrence of which can be documented by mountains of evidence that nobody has been able to refute... It is now actually misleading to refer to evolution as a theory, considering the massive evidence that has been discovered over the last 140 years documenting its existence. Evolution is no longer a theory, it is simply a fact.

[8Evolution is an established fact supported by both science and reason; our own species is linked to life, earth history, this galaxy, and the universe itself.

Is there a modern theology that embraces both a cosmic perspective and the evolutionary framework within an openended and myth-free worldview? Eventually, the blind dogma of religious faith with its outmoded stories and myopic values wears very thin, indeed; it is simply wishful thinking to believe in human immortality and a spiritual cosmos.

[9Science, as we professionals always point out, cannot establish absolute truth; thus, our conclusions must always remain tentative. But this healthy skepticism need not be extended to the point of nihilism, and we may surely state that some facts has been ascertained with sufficient confidence that we may designate them as “true” in any legitimate, vernacular meaning of the world.

Perhaps I cannot be absolutely certain that the earth is round rather than flat, but the roughly spherical shape of our planet has been sufficiently well verified that I need not grant the “flat earth society” a platform of equal time, or even any time at all, in my science class.

Evolution, the basic organizing concept of all the biological sciences, has been validated to an equally high degree, and may therefore be designated as true or factual.

[10This century will be called Darwin’s century. He was one of the greatest men who ever touched this globe. He has explained more of the phenomena of life than all of the Christian religious teachers. Write the name of Charles Darwin on the one hand and the name of every theologian who ever lived on the other, and from that name has come more light to the world than from all those. His theory of evolution, his theory of the survival of the fittest, his theory of the origin of species, has removed in every thinking mind the last vestige of Christianity. He has not only stated, but he has demonstrated, that the inspired writer knew nothing of this world, nothing of the origin of man, nothing of geology, nothing of astronomy, nothing of nature; that the Bible is a book written by ignorance – at the instigation of fear. Think of the men who replied to him. The more ignorant he was the more cheerfully he undertook the task. He was held up to the ridicule, the scorn and contempt of the Christian world, and yet when he died, England was proud to put his dust with that of her noblest and her grandest. Charles Darwin conquered the intellectual world, and his theories are now accepted facts.

The Christian church teaches that man was created perfect, and that for six thousand years he has degenerated. Darwin demonstrated the falsify of this dogma. He shows that man has for thousands of ages steadily advanced; that the Garden of Eden is an ignorant myth; that the doctrine of original sin has no foundation in fact; that the atonement is an absurdity; that the serpent did not tempt, and that man did not “fall”.

Charls Darwin destroyed the foundation of Christianity. There is nothing left but faith in what we know could not and did not happen. The Christian religion and science are enemies. One is a superstition; the other is a fact. One rests upon the false, the other upon the true. One is the result of fear and faith, the other of investigation and reason.

Let us be honest. Did all the priests of Rome increase the mental wealth of man as much as Bruno? Did all the priests of France do as great a work for the civilization as Diderot and Voltaire? Did all the ministers of Scotland add as much to the sum of human knowledge as David Hume? Have all the clergymen, friars, ministers, priests, bishops, cardinals and popes, from the day of Pentecost to the last election, done as much for human liberty as Thomas Paine? – as much for science as Charles Darwin?

What would the world be if infidels had never been?